mang trên mặt làm tôi sợ. Ông hôi mùi xi măng, cá khô, garri, và bụi
trắng. Ông ngồi lặng yên hồi lâu, không nhúc nhích. Lúc ông di
chuyển, khớp xương kêu răng rắc, cái tay đau lủng lẳng bên cạnh. Dải
băng không còn, vết thương dính đầy bụi trắng. Đột nhiên, ngoài sự
yên ắng của cây nến đang cháy chậm, ông lên tiếng: “Mẹ con sao
rồi?”
“Hôm nay mẹ suýt chết. Bà chủ Koto đã cứu mẹ.”
Ông hít sâu, nhắm mắt lại. Ông im lặng một lúc lâu, và tôi tưởng ông
đã ngủ. Mắt mẹ mở mà vô hồn.
“Có đồ ăn gì không?”
“Dạ không.”
Ba lại im lặng. Sau đó ông mang dép vào, lấy khăn và xà bông đi tắm.
Ông trở lại, nhìn sạch sẽ và đẹp trai, bụi trắng với mùi xi măng không
còn nữa. Nhưng mắt ông nặng trĩu, trông vẫn còn vẻ hoang mang và
còn làm tôi sợ. Ông xoa dầu, chải tóc, đốt nhang muỗi. Chúng tôi dời
cái bàn rồi trải chiếu. Phòng hôi mùi giày và quần áo ông. Ông ngồi
trên ghế còn tôi nằm ở chiếu, kê gối dưới đầu. Ông phả khói vào đêm.
“Vậy hôm nay có chuyện gì?” Lúc sau ông hỏi.
Tôi định kể cho ông chuyện về mấy chủ nợ và mẹ, nhưng lại cảm
nhận vẻ mệt mỏi rõ ràng ở ông làm đêm nặng nề, nên tôi nói: “Mẹ
suýt chết.”
Ông buông tiếng thở dài. Rồi ông đứng lên, nhìn mặt mẹ, đặt tay lên
trán, vuốt cho mắt mẹ nhắm. Ông quay lại ghế hút thêm thuốc, tôi
lường được nỗi buồn trong lòng ông qua cách rít thuốc, cách ông thở
dài lúc phà khói.