bay, ríu rít hót gọi nhau. Của nàng, tất cả là của nàng. Paul siết chặt
nắm tay be bé ngay dưới cằm. Hai má nó phập phồng thật nhịp nhàng
lúc bú. Xung quanh họ, cả vũ trụ rầm rì, vừa âm thầm, vừa dữ dội.
Trái tim Norah tràn ngập yêu thương, niềm hạnh phúc vô bờ và cả
nỗi đau đớn khôn cùng.
Nàng đã không rơi nước mắt trước cái chết của đứa bé gái như
David.
Con bé mắc chứng xanh tím, David đã nói vậy, nước mắt len lỏi
giữa những sợi râu lởm chởm mới mọc trong ngày của anh. Đứa bé ấy
không biết đến hít thở khí trời là gì, dù chỉ một lần. Lúc ấy Paul đang
nằm trong vòng tay nàng, Norah còn mải ngắm nó: khuôn mặt xinh
xinh, trong trẻo và nhăn nheo, cái mũ trùm đầu bằng len có sọc nhỏ,
những ngón tay nhỏ xíu, hồng hồng, mảnh mai và hơi cong cong. Móng
tay nó bé tí ti, vẫn còn mềm và trong suốt như ánh trăng buổi ban mai.
Norah không thể, chưa thể, nhận thức được những lời David nói. Ký ức
của nàng về buổi đêm trước đó ban đầu còn rõ ràng, rồi nhòa dần: cơn
bão tuyết, và cuốc xe dài lê thê qua những con phố vắng tanh tới
phòng khám, David dừng lại ở tất cả các chốt đèn đỏ trong khi nàng vật
lộn với những cơn co thắt đau xé người để đẩy đứa trẻ ra, cơ thể run rẩy
và căng cứng. Sau đó nàng chỉ còn nhớ những điều rất lặt vặt, rất kỳ lạ:
bầu không khí tĩnh lặng xa lạ của căn phòng khám, cảm giác mềm mại
khi tấm vải màu xanh đã sờn được phủ lên đầu gối nàng. Mặt bàn khám
lạnh toát áp vào tấm lưng trần của nàng. Chiếc đồng hồ mạ vàng của
Caroline Gill sáng lấp lánh mỗi lần cô ta vươn tay ra để bơm khí gây tê
cho Norah. Sau đó nàng tỉnh dậy thì Paul đã nằm gọn trong vòng tay
mình còn David ngồi bên cạnh, khóc nức nở. Nàng ngước mắt lên, nhìn
anh, vừa quan tâm lại vừa thờ ơ thích thú. Thực ra đó là do tác dụng
của thuốc gây tê, dư chấn của ca sinh nở tạo ra những hormone gây
phấn khích. Một đứa con nữa, một đứa trẻ chết non – sao lại thế? Nàng
vẫn còn nhớ cơn co giật thứ hai, và giọng nói của David nặng trịch như
đá ném xuống mặt nước trắng xóa. Nhưng đứa bé sơ sinh đang nằm