lá pha ấm trà đặt lên bàn, không thấy cái mũ, cái túi của anh treo
trên cột. Chị Hải biết, thế là anh đi rồi. Một cảm giác khó tả.
Thảng thốt, chếnh choáng. Tủi thân và đơn độc. Chị thực sự cảm
thấy sự sống của mình vô nghĩa vô hồn.
Nhưng chị vẫn phải sống. Chị sống lủi thủi như một cái hình
nộm. Cái hình nộm bằng rơm lặng lẽ im lìm giữa vườn trại mênh
mông, dế, giun và gió. Chị không có khái niệm đêm và ngày, chị
cũng không đoái hoài tới tháng, tới năm.
Chẳng có ai ân tình chỉ cho chị biết tóc chị bỗng dưng bạc sớm
đây này.
Vườn nhãn nhà chị, sai trĩu quả. Lũ dơi tự do khểnh ăn và sành
điệu. Chúng chỉ thưởng thức, chỉ xơi những quả nhãn ngon mỏng vỏ
thơm ngọt và mọng cùi. Nhãn thơm chúng chỉ nếm có một nửa, để
lại nửa quả lõm một cái hố chơ cái hạt nhãn đen tròn long lên như
mắt cú trên ngọn cây.
Thời gian trôi. Lạ thành quen. Quen thành lạ. Chị Hải khóc. Khóc
chán lại cười. Cười mãi lại buồn. Buồn quá chẳng biết làm sao, chị
đâm ra lẩn thẩn tâm tình với ngọn cỏ, cành cây, với cái chổi quét nhà,
cái quạt mo cau, cái cuốc làm vườn, cái thùng gánh nước, con chó,
con gà, cái củi đun bếp, ngọn lửa nấu cơm...
Một buổi chiều, chị Hải cảm thấy tức ngực, khó thở. Hình như là
chị ốm. Hay là trở trời. Chị bước ra sân, ngửa mặt lên trời nghe
ngóng. Vô tình, chị nhìn lên mái nhà. Ngôi nhà cổ, hàng nối hàng
những phiến ngói chiếu rêu phong ngăn nắp thẳng hàng, lá rụng
mục mủn dày. Thế là có việc, quên ốm, chị Hải bắc thang, một tay
cầm chiếc chổi tre trèo lên dọn. Lá mục, cành khô lâu ngày kết lại,
chị Hải lom khom như người thợ cấy nhổ mạ mùa đông gieo trên
sân. Chị bóc từng tảng từng mảng cho vào bao tải lăn theo mái ngói