Molly giữ chặt lấy con mèo quá mạnh đến nỗi hình như nó kêu lên một
tiếng phản đối. "Ngươi có biết đường xuống đó không?" nàng hớt hải hỏi.
"Hãy nói cho ta biết, hãy nói mau cho ta biết đường đi." Nàng đặt mèo lên
bàn và buông tay ra.
Con mèo không trả lời một lúc lâu, nhưng đôi mắt nó cứ sáng dần lên,
sáng dần lên: ánh vàng như tỏa ra để che lấy màu xanh của đôi mắt nó. Cái
tai khoằm của nó vặn vẹo, và chóp đuôi của nó cũng vậy. Chỉ có thế. Giây
lâu nó mới nói.
"Khi rượu vang tự uống, khi đầu lâu cất lời, khi chuông đồng hồ điểm
đúng - chỉ có khi đó quý vị mới tìm ra đường xuống sào huyệt Con Bò
Mộng Đỏ." Nó đặt một chân lên ngực và nói thêm, "Lẽ cố nhiên đó là một
cách nói bóng gió, và cũng cần sử dụng đôi chút ảo thuật."
"Ta có thể đoán," Molly nói một cách hăng hái. "Đó là chiếc xương sọ cũ
kỹ, mục nát, gớm ghiếc đặt trên chiếc trụ đá trong khu tiền đình rộng mênh
mông cái đó mà có gì để nói. Chiếc đồng hồ treo gần đấy toàn điểm giờ
tầm bậy tầm bạ và theo hứng của nó. Bất cứ giờ nào cũng là nửa đêm, điểm
mười bảy tiếng vào lúc bốn giờ sáng, lại có khi cả tuần chẳng hề một lần
điểm giờ. Còn rượu vang - ồ, hỡi mèo, phải chăng đó là ám chỉ một đường
hầm. Người có biết đường hầm đó phải không?"
"Lẽ cố nhiên tôi biết," con mèo vừa trả lời vừa oằn người ra ngáp. "Lẽ cố
nhiên việc đơn giản nhất là tôi chỉ đường cho quý vị. Như vậy vừa tiết kiệm
được thì giờ, vừa đỡ rắc rối."
Giọng mèo lè nhè kéo dài vì buồn ngủ. Molly nhận ra rằng nó, cũng
giống như Vua Haggard, đã hết hứng thú rồi. Nàng vội vã hỏi, "Hãy nói
cho ta thêm một điều. Những kỳ lân xưa ra sao? Chúng ở đâu bây giờ?"
Con mèo lại ngáp nữa. "Gần và xa, xa và gần," nó thì thầm. "Chúng ở
trong tầm nhìn, nhưng lại xa tầm trí nhớ của công nương Amalthea. Chúng
đương tiến tới gần hơn, chúng đương lùi ra xa nữa." Nó nhắm mắt lại.
Hơi thở của Molly nặng nhọc như thừng chão kéo qua nơi gồ ghề. "Con
khỉ, sao ngươi không giúp ta?" nàng hét lên. "Sao ngươi cứ luôn luôn phải
sử dụng lời bóng gió úp mở như vậy?"