năng ảo thuật chân chính lúc đến lúc đi bất thường của ông, lân cũng chịu
nốt.
Cứ như vậy cuộc hành trình tiếp tục. Họ như đương bám sát lấy một
bóng đen âm thầm nào đó đương chạy trốn theo hút gió. Mặt đất khô cứng
nứt nẻ ra, làn đất thịt màu mỡ bên trên đã bị gọt đi mất để nay biến thành
những hình khe hình vực, hoặc răn rúm lại thành những đồi sỏi. Trời cao và
xám mất hút trong ánh sáng ban ngày, đôi khi lân có cảm tưởng cả ba
đương rờ rẫm một cách tuyệt vọng như con ốc sên dưới ánh mặt trời.
Nhưng lân vẫn là lân nghĩa là đẹp ở bất kỳ thời gian nào không gian nào.
Ngay cả tiếng cóc gào mưa trong các hang hốc hay trên các hàng cây khô
cũng bặt tiếng khi thấy lân đi qua.
Ngay cả loài cóc coi bộ cũng còn niềm nở hơn dân chúng sống trong
miền cai trị của vua Haggard. Những làng mạc họ ở trông trần trụi như
xương trơ, những đồi quanh làng họ thì đá tai mèo sắc như dao, chẳng có
một giống cây nào mọc nổi, và lòng họ thì thực chát hơn sung, chua hơn
dấm. Lũ con cái họ thấy người lạ vào phố bèn lấy đá ném và lũ chó còn
đuổi theo sủa vang.
Lân đã chán ngấy nhân loại. Ngắm họ ngủ, nhìn bóng mộng lướt trên
khuôn mặt họ, biết đặt bao nhiêu tên cho xuể về những bóng mộng phức
tạp ấy. Có khi lân chạy suốt đêm cho vợi niềm sầu muộn, chạy nhanh hơn
mưa tạt, thành ánh sao băng, như thể chạy để bắt kịp thời gian. Đôi khi giữa
hai hơi thở, lân có cảm tưởng như cả Schmendrick và Molly đã chết từ rồi,
cả vua Haggard nữa, Con Bò Mộng Đỏ thì còn đó, lẫy lừng giữa ngôi bá
chủ, và như vậy đã bao nhiêu đời qua đi rồi, kể cả những vì sao được chứng
kiến hết những chuyện ấy cũng đã nguội đơ thành than đá cả rồi, vậy mà
lân vẫn còn đó làm con kỳ lân cuối cùng của trái đất.
Rồi tới một chiều thu kia, ba kẻ lữ hành rảo quanh đỉnh một dãy núi thì
thấy một tòa lâu đài nổi bật trên khoảng trời dọc theo một thung lũng dài và
sâu. Tòa lâu đài trông mỏng manh, xoáy vặn, lởm chởm những chòi tháp
trông như nụ cười nham nhở của một anh không lồ. Molly phá lên cười
thực tình trong khi lân muốn thu nhỏ mình lại e dè, vì lân có cảm tưởng