tòa chọc trời của Mỹ vào thập niên ba mươi; nếu có thêm cửa ra vào bằng kính,
hẳn tôi sẽ thấy mình khác nào chàng thám tử Marlowe. Tôi kê một chiếc giường
kiêm xô pha trong căn phòng phía sau và biến phòng trước thành một văn phòng.
Trong hai chiếc giá sách, tôi xếp một ít Atlas, bách khoa toàn thư, catalog mình
kiếm được dần từng tí một. Ban đầu, tôi phải giả điếc với lương tâm mình mà viết
hộ luận văn cho những sinh viên cùng đường. Việc đó chẳng khó gì: tôi chỉ cần
sao chép lại một ít từ thập kỷ trước. Nhưng rồi bạn bè của tôi trong ngành xuất
bản bắt đầu gửi bản thảo và sách ngoại văn cho tôi đọc, đương nhiên là những thứ
ít hấp dẫn nhất và thù lao hẻo.
Dầu vậy tôi đang tích lũy kinh nghiệm và thông tin nên không bao giờ ném
thứ gì đi. Tôi lưu lại tất cả thành những tập tài liệu. Tôi không tính chuyện dùng
máy vi tính (loại máy này khi ấy vừa ra thị trường, Belbo là một trong những
người tiên phong). Thay vào đó, tôi có những thẻ chỉ mục tra cứu chéo. Nebulae,
Laplace; Laplace, Kant; Kant, Königsberg, bảy cây cầu của Königsberg, các định
lý của tô pô học... Nhang nhác một trò chơi mà bạn phải đi từ xúc xích tới Plato
trong năm bước thông qua việc kết hợp các ý niệm. Hãy xem nào: xúc xích, lông
lợn, bút lông, hội họa Mannerism, Ý niệm, Plato. Dễ mà. Thậm chí bản thảo dở
nhất cũng đem lại cho tôi hai mươi tấm thẻ mới trong kho. Tôi có một nguyên tắc
nghiêm ngặt mà hẳn cũng được người ta tuân thủ trong các tổ chức mật: Không
thông tin nào quan trọng hơn thông tin nào. Sức mạnh nằm ở việc có tất cả chúng
trong hồ sơ và rồi tìm ra các kết nối. Các kết nối luôn sẵn đó; việc của anh chỉ là
phải tìm ra chúng.
Sau khoảng hai năm làm việc, tôi khá hài lòng với bản thân. Tôi đã có
những tháng ngày vui thú. Trong thời gian ấy, tôi gặp Lia.