cửa và một răng nanh mọc lệch. Đôi mắt láo liên, cú vọ, sắc lẹm. Tôi nghe thấy,
hoặc nghĩ mình nghe thấy - hoặc bây giờ tôi nghĩ là mình nhớ đã nghe thấy,
nhưng cũng có thể tôi lẫn lộn với những ký ức khác - một loạt những từ ngữ tiếng
Celt lẫn với những lời bằng một dạng tiếng Latin, một thứ gì đó từa tựa như “O
pegnia (oh, e oh!) et eee uluma!!!” Đột nhiên màn mây mù bay lên, biến mất,
khoảng rừng trống trở lại quang quẻ, và tôi nhận thấy có một đàn lợn, với những
dải tảo xanh quấn quanh mấy cái cổ ngắn ngủn, đã chiếm cứ khoảng đất trống.
Nữ tu thổi cây kèn lúc nãy vẫn ở trên mộ đá, bây giờ đang khua một con dao.
“Chúng ta đi thôi,” Agliè đột ngột lên tiếng. “Hết rồi.”
Nghe tiếng Agliè vọng vào tai, tôi chợt nhận ra rằng đám mây đang bao bọc
trên đầu và xung quanh chúng tôi, và tôi hầu như không thấy rõ những người đi
cùng.
“Ý anh xong rồi là sao?” Garamond nói. “Tôi lại thấy như phần chính vừa
mới bắt đầu!”
“Những gì các bạn được phép nhìn đã hết rồi. Giờ là phần không được phép
nhìn. Chúng ta phải tôn trọng nghi lễ. Đi nào.”
Ông ta quay lại khu rừng, nhanh chóng bị đám sương mù đang bao bọc
chúng tôi nuốt chửng. Chúng tôi rùng mình trong khi cất bước, giẫm lên những
chiếc lá chết, thở phì phò, hỗn loạn, giống như một đám tàn quân tháo chạy, ra
đến đường cái thì tập hợp lại. Chỉ cần chưa đầy hai giờ là về đến Milan. Trước
khi quay vào xe của Garamond, Agliè nói lời tạm biệt: “Các bạn phải tha lỗi cho
tôi về việc đã cắt ngang những gì các bạn đang xem. Tôi muốn các bạn học được
gì đó, thấy được những người mà các bạn đang làm việc cho. Nhưng không thể ở
lại. Khi được thông báo về sự kiện này, tôi đã hứa sẽ không phá đám buổi lễ. Nếu
chúng ta tiếp tục ở đó thì sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới những gì xảy ra sau đó.”
“Thế còn lũ lợn? Chúng sẽ ra sao?” Belbo hỏi.
“Những gì tôi có thể nói cho các bạn, tôi đã nói rồi.”