chân.
Trên nền cỏ xanh mơn mởn, có hai mươi mấy cái thây nằm ngã ngổn
ngang, đều há hốc mồm, mắt lọt khỏi tròng, cổ bị khía một vết thương, máu
đã đông tím lại trong làn gió núi.
“Mẹ ơi!” Đờ đẫn một lúc lâu, cuối cùng Văn Tĩnh buột miệng kêu lên.
“Đừng lải nhải nữa!” Ông già đứng bên một thi thể, không ngoảnh đầu lại,
trên tay là một miếng ngọc bài trong suốt lóng lánh như mỡ dê.
“Chuyện gì thế bố?” Văn Tĩnh hỏi, tim đập thình thịch.
“Mày hỏi ta, ta biết hỏi ai?” Ông già nói, “Đám người này chết ít nhất cũng
được hai canh giờ rồi.”
“Lạ nhỉ!” Văn Tĩnh lấy lại can đảm, bước đến xem xét thật kỹ mấy cái xác:
“Những người này đều bị thương ở cổ… Ôi, độ nông sâu giống hệt nhau,
như thể dùng thước đo ấy.”
“Ừ, tất nhiên. Ta nghĩ do một người hạ thủ thôi.”
Văn Tĩnh giật mình, ngó lão già trừng trừng: “Bố nói dối.”
“Mày bảo sao cơ?” Ông già giơ nắm tay to tướng lên.
Gã trai vội vả vào miệng mình, cười xoà: “Sao bố biết là do một người hạ
thủ?”
“Không còn gì đơn giản hơn.” Ông già bảo: “Mày nhìn các vết chân dưới
đất, ngoài của mày, của ta, thì chỉ còn hai loại. Một là dấu giày đầu hổ, đó
là thứ giày người giàu thường xỏ lúc leo núi. Một là dấu giày đế mỏng,
thường dùng để phi hành hoặc chạy trên vách đá, rất ít đeo khi đi đường
núi. Ta vừa xem rồi, những người chết này đều mang giày đầu hổ.”
Văn Tĩnh chăm chú quan sát: “Bố thực là mắt sáng như sao, liệu việc như
thần, nhưng mà… nhưng mà… sao con không nhìn thấy dấu giày đế
mỏng?”
Ông già ngồi xổm xuống, chỉ vào một chỗ lõm bé xíu trên mặt đất, “Nông
thế này mà!” Văn Tĩnh trố mắt.
Ông già chậm rãi đứng lên: “Kẻ này võ công cao lắm, thực khiến người ta
khiếp sợ. Đao pháp thì khỏi phải nói rồi, ngay thuật khinh thân, cả đời
Lương Thiên Đức ta cũng chưa trông thấy bao giờ.”
“Không thể nào. Chắc tại bọn này kém quá mà thôi.”