Giờ khám buổi tối hầu như xong xuôi lúc tám rưỡi, cái giờ mà Adolphus
vẫn luôn đóng cửa ngoài phòng khám đúng giờ một cách chuẩn mực. Tôi
nay anh ta cũng chỉn chu như thường lệ. Sau khi đóng cửa - công việc cuối
cùng hàng ngày, và giảm bớt đèn phòng khám, anh ta báo lại với tôi rồi ra
về.
Khi tiếng bước chân nhỏ dần cùng tiếng đóng cửa ngoài vang lên báo
hiệu anh ta đã thực sự rời đi, tôi ngồi thẳng dậy, vươn vai. Chiếc phong bì
đựng bản sao di chúc đang nằm trên mặt bàn, tôi bèn xem xét nó thật cẩn
trọng. Nó phải được gửi cho Thorndyke càng sớm càng tốt, chắc chắn
không thể tin tưởng ai ngoài bản thân mình, tôi cần đích thân mang nó giao
cho ông.
Lại ngó qua mấy cuốn sổ, tuy tôi đã chép lại được khá nhiều trong gần
hai tiếng đồng hồ song công việc còn lâu mới hoàn thành. Có điều, ngẫm đi
ngẫm lại, tôi nghĩ mình có thể sắp xếp chừng hai tiếng trước khi đi ngủ và
một hoặc hai tiếng đồng hồ rãnh rỗi vào buổi sáng để hoàn thành nốt, nên
rốt cuộc là tôi cất cuốn sổ vào ngăn kéo bàn rồi khóa lại, kế đó luồn chiếc
phong bì vào túi áo, sải bước về phía phố Temple.
Những tiếng đồng hồ nhẹ nhàng chỗ Bộ Tài chính rành rọt báo hiệu ba
khắc khi tôi gõ cây gậy chống lên cánh cửa văn phòng bằng gỗ sồi đồ sộ
của hai người bạn mình. Không ai trả lời, cũng chẳng chút ánh sáng nào le
lói qua cửa sổ. Đương lúc tôi còn cân nhắc hay là thử gõ cửa phòng thí
nghiệm tầng trên thì bỗng có tiếng bước chân trên cầu thang đá, giọng tiếng
nói quen thuộc vọng tới tai tôi.
“Chào Berkeley!” Thorndyke nói, “Anh cứ như Peri
Đường thế? Polton đang loay hoay trên gác với một trong những phát minh
mới của mình kìa. Bất cứ khi nào anh thấy cái tổ này trống không, chỉ việc
lên gác đập cửa phòng thí nghiệm, tối nào ông ta cũng ở đó.”
“Tôi cũng chưa phải chờ lâu lắm mà.” Tôi đáp, “Đang định lên đó quấy
rầy ông ta thì gặp hai người đây.”