Sáng hôm sau chàng họa sĩ nhìn thấy cô mèo cuộn tròn nằm trên chiếc
gối dựa của mình như một cục bông.
“À ! ta thấy ngươi biết chọn chỗ êm ái nhất rồi đấy!” chàng nói. May
ngay lập tức đứng dậy, và đi ra ngoài làm vệ sinh buổi sáng một cách hết
sức kỹ lưỡng và khéo léo. Khi bà giúp việc đi chợ về và nấu một bữa ăn
khiêm tốn, May không đi đến gần lò bếp, mặc dù cặp mắt của nó thỉnh
thoáng vẫn liếc về phía đó và hàng ria trắng như sợi bông của nó giật nhẹ vì
đói. Cô mèo có mặt ở trong phòng khi bà lão giúp việc mang một chiếc bàn
thấp và đặt nó trước cậu chủ. Tiếp đến là một tô canh cá - có trời mà biết bà
lão giúp việc đã xoay xở bằng cách nào để có được con cá đó! - nhưng May
giữ đúng phép tắc và hướng mắt nhìn đi nơi khác.
“Phải nói là,” chàng họa sĩ lên tiếng, hài lòng vì hành vi của cô mèo, “nó
hiểu rằng nhìn chằm chằm vào người ta ăn là không lịch sự. Cô ả đã đuợc
nuôi dạy rất đúng phép. Bác mua nó của ai vậy?”
“Lão mua nó của một người đánh cá ở ngoài chợ,” bà lão nói. “Nó là cô
chị cả trong một gia đình mèo. Cậu biết đấy, không có chiếc thuyền nào ra
khơi mà không mang theo một con mèo để xua đuổi những con quỷ biển.”
“Xì!” chàng họa sĩ thốt lên. “Mèo không xua đuổi lũ quỷ. Chúng là họ
hàng với nhau. Những con quái vật biển để yên cho một chiếc thuyền cho
phải phép lịch sự với con mèo, chứ không phải vì sợ nó.”
Bà lão không cãi lại. Bà biết rõ vị trí mình. May tiếp tục ngồi quay mặt
vào tường.
Chàng họa sĩ nhấp một, hai muỗng canh. Rồi chàng nói với bà giúp việc,
“Nhân tiện bác làm ơn mang cho May một chén cơm khi bác mang cơm lên
cho cháu. Chắc là nó đói rồi.”
Khi chén cơm được mang ra, chàng lịch sự gọi con mèo lại. Sau khi đã
được mời theo đúng phép tắc, May thôi không nhìn về phía bên kia căn
phòng nữa, và đến ngồi cạnh cậu chủ. Nó ăn cẩn thận, từ tốn để khỏi làm dơ
chiếc cằm trắng của mình. Mặc dù cô mèo hẳn đang rất đói, cô chỉ ăn một