nhất trong số các loài vật không được Người ban phúc. Có lẽ vì đau buồn
nên chúng thường qua lại với các loài yêu ma.”
Lúc này May dúi chiếc đầu nhỏ tròn của nó vào ngực chàng họa sĩ và
kêu meo meo như một đứa trẻ đang khóc. Chàng cố hết sức vỗ về nó và gọi
bà giúp việc.
“Bác hãy mua một con cá ngon dành riêng cho nó,” chàng nói với bà lão.
“Và đừng cho nó vào đây nữa cho đến khi nào cháu vẽ xong bức tranh. Nó
sẽ làm tan vỡ trái tim của hai bác cháu ta mất. ”
“À, lão vẫn cứ sợ là nó cố ý phá hỏng tranh,” bà lão lo lắng nói. Bà cảm
thấy có trách nhiệm vì đã mang con mèo về nhà trái với ý của cậu chủ, và
giờ đây vận mệnh của họ phụ thuộc vào bức tranh được nhà chùa đặt vẽ.
“Không phải vậy đâu,” chàng họa sĩ nói, và chàng quay trở lại với dòng
suy tư của mình. Trông chàng thật mệt mỏi và tiều tụy, nhưng bức tranh thì
đẹp làm sao! Bức tranh chàng vẽ đã gần xong. Chàng đã tưởng tượng tất cả
mọi cuộc sống của mọi sinh vật. Kia là hình Đức Phật vĩ đại sắp viên tịch,
trông người uy nghi, mệt mỏi, và đầy từ bi. Kia là nhóm những vị thần và
người phàm; và kia là những con vật. Cuộn giấy lụa dường như không đủ
lớn để chứa đựng tất cả những sự sống đầy khác biệt này, tất cả mọi sinh
linh tụ họp lại thể hiện sự thành kính, thành tâm thực hành yêu thương.
Nhưng có một sinh vật đã bị loại bỏ ra ngoài. Chàng nghe tiếng kêu meo
meo yếu ớt vọng đến từ nhà bếp, và giọng bà giúp việc cố gắng dỗ dành
May ăn nhưng không được. Chàng họa sĩ tưởng tượng con mèo nhỏ bé của
mình có cảm giác ra sao, nó thật dịu dàng, thật dễ thương, nhưng mãi mãi
phải chịu một lời nguyền. Tất cả những con vật khác đều có thể được Đức
Phật ban phúc và có thể lên Niết bàn, nhưng cánh cửa cõi Niết bàn mãi mãi
đóng lại trước mặt con mèo nhỏ. Nước mắt trào ra trong mắt chàng.
“Mình không thể nhẫn tâm như vậy được,” chàng nói. “Nếu các nhà sư
muốn từ chối không nhận bức tranh vì nó không chính xác, họ cứ tự nhiên
làm vậy. Mình chết đói cũng được.”