nói là rất lạ. Vì nghe nói lúc đó cô ấy dã chết rồi. Vậy cậu ta có thể làm cái
quái gì ở đó chứ?”
Đây cũng chính là điều khiến Patrik băn khoăn. Bà Petrén nhìn anh vẻ dò
xét. “Thế nào, cậu thích bánh này không?”
“Có lẽ là những chiếc bánh ngọt ngon nhất tôi từng được nếm. Làm sao
mà bà có thể làm xong một khay bánh ngọt như thế trong nháy mắt? Ý tôi
là tôi chỉ gọi điện tới trước mười lăm phút. Bà đúng là siêu nhân khi có thể
nướng xong những chiếc bánh ngon mà lại thần tốc như thế.”
Bà Petrén tỏ ra hài lòng với những lời khen ngợi, không khỏi ngẩng cao
đầu vẻ tự hào.
“Ta và ông nhà đã mở một tiệm bánh ngọt trong suốt ba mươi năm ở
Fjällbacka này, thế nên cùng với thời gian cũng học hỏi được một ít. Những
thói quen cũ rất khó thay đổi nên ta vẫn thức dậy vào lúc năm giờ sáng và
nướng bánh hằng ngày. Nếu không để phục vụ lũ trẻ và những bà bạn tới
chơi thì lại cho chim ăn. Việc thử những công thức mới luôn đem lại niềm
vui. Ngày nay có nhiều loại bánh ngọt mới ngon hơn nhiều so với thứ bánh
cuộn khô khốc mà ngày xưa chúng ta từng xuất lò tới hàng tấn. Ta tìm thấy
công thức trong các tạp chí ẩm thực rồi cải biến chúng phù hợp với sở thích
của mình.”
Bà chỉ những chồng tạp chí ẩm thực chất đống trên sàn nhà, cạnh ghế, từ
Amelia Mat cho tới Allt om mat, ấn bản nhiều năm khác nhau. Nhìn giá bìa
tạp chí, Patrik cho rằng bà Petrén hẳn kiếm được khá nhiều tiền trong
những năm mở tiệm bánh. Anh liền nảy ra một ý tưởng.
“Bà có biết mối liên hệ nào khác giữa nhà Carlgren và gia đình Lorentz
ngoài việc Karl-Erik từng làm việc cho họ không? Tỉ như họ giao thiệp xã
hội?”
“Lạy Chúa lòng lành, nhà Lorentz giao lưu với nhà Carlgren ư? Không
đời nào, chàng trai ạ, chuyện đó chỉ có thể xảy ra khi có hai ngày thứ Năm
trong một tuần. Họ không thuộc cùng một tầng lớp. Việc Nelly Lorentz
xuất hiện tại tiệc sau đám tang ở nhà Carlgren, theo như những gì tôi nghe
được, chỉ là một sự gây chú ý mà thôi, không hơn không kém.”