trực tiếp có mặt ở đó, dù hoàn toàn tin tưởng thanh tra Oyun, người ông đã
cử ở lại điều tra lắm. Cô biết phải làm gì tại đó và sẽ báo cáo với ông nếu
cần thiết.
Viên cảnh sát huyện không dám ngồi xổm xuống bên cạnh ông. Anh ta
vẫn đứng, khom người xuống, đầu gối gập lại, lưng uốn cong làm đôi.
Nhưng khác với Yeruldelgger, anh ta chẳng tìm cách để hiểu. Anh ta chỉ
đợi vị cảnh sát trưởng từ thủ đô đến làm việc đó. Còn gia đình du mục thì
đã ngồi xổm xuống cùng lúc với ông. Người bố của gia đình có lẽ đã ở tuổi
lên ông lên bà, khuôn mặt nhăn lại trước ánh nắng chiếu vào chiếc mũ chóp
nhọn truyền thống. Ông lão mặc chiếc áo vạt dài truyền thống bằng vải xa
tanh màu lục, thêu chỉ vàng, chân đi đôi ủng da dành cho dân cưỡi ngựa.
Người phụ nữ mặc áo măng tô màu lam nhạt vải mềm được thắt lại ở hông
bằng dải đai lưng xa tanh màu hồng rộng bản. Cô trẻ hơn rất nhiều so với
người đàn ông. Ba đứa trẻ đứng thành hàng dọc, mặc đồ màu đỏ, vàng và
xanh lục: hai cậu bé và đằng sau là một cô bé con. Vị cảnh sát trưởng thầm
đoán mấy đứa trẻ này có lẽ chỉ cách nhau năm một. Cả gia đình đều có vẻ
hân hoan, trên khuôn mặt họ, với làn da thô ráp và đỏ ửng vì gió thảo
nguyên, cát hoang mạc và những vết bông tuyết, nở rộng những nụ cười hết
cỡ. Khi còn thơ ấu, một thời Yeruldelgger cũng từng là cậu bé của thảo
nguyên như mấy đứa trẻ này.
“Thế nào, thưa cảnh sát trưởng?” viên cảnh sát huyện đánh bạo hỏi.
“Thế nào ư, đây là một cái bàn đạp. Một cái bàn đạp cỡ nhỏ. Tôi đoán là
anh đã từng thấy một cái bàn đạp rồi chứ, anh cảnh sát?”
“Vâng, thưa cảnh sát trưởng. Con trai tôi có một cái xe đạp.”
“Hay quá,” Yeruldelgger thở phào,. “thế thì anh biết một cái bàn đạp
nghĩa là gì!”
“Vâng, thưa cảnh sát trưởng.”
Trước mặt họ, gia đình du mục đang ngồi xổm thành hàng dọc tươi cười
lắng nghe cuộc trao đổi giữa hai viên cảnh sát. Đằng sau, ta có thể thấy cái
lều màu trắng của họ, và bao khắp xung quanh là thảo nguyên xanh rì gợn
sóng theo từng cơn gió thổi trải rộng ra đến ngút tầm mắt cho tới tận đường