thể không còn sự sống lại. Ông không thể chịu nổi những tội ác gây ra với
trẻ con. Cả ý nghĩ về cái chết của chúng cũng không!.
“Thưa cảnh sát trưởng, kia kìa, bàn tay ở ngay bên dưới cái này,” ông lão
vừa nói vừa chỉ vào một thứ có vẻ là miếng chắn đằng trước bằng kim loại
màu hồng.
Yeruldelgger quỳ xuống gần cái hố và cúi người xuống để nhìn xuống
bên dưới miếng kim loại mà một trong số mấy đứa trẻ vẫn đang dùng đầu
móng tay bới đất moi ra. Đó là một bàn tay nhỏ xíu, không nghi ngờ gì nữa.
Một bàn tay nhỏ xíu giơ về phía ông, các ngón tay đã bị phân hủy một nữa,
như trong một cử chỉ cầu xin có phần hơi vặn vẹo.
“Cháu đừng sợ,” Yeruldelgger thì thầm,. “giờ có chú ở đây rồi, chúng ta
sẽ lo cho cháu. Cháu không còn một mình nữa…”
Vị cảnh sát trưởng vốn không có niềm tin vào nhiều thứ, ngoại trừ sự
bình yên của các linh hồn. Cuộc sống thật nặng nề khi phải gánh trên vai và
thật gian nan để đối đầu, đến mức theo ông mọi linh hồn phải có quyền
được bình yên, nghỉ ngơi và tôn trọng khi rời bỏ thế gian. Nói cho cùng,
như thế cũng chẳng phải là đòi hỏi quá nhiều ở một vị Thượng đế đã để
những đứa trẻ phải chết với đầy đất trong miệng, phải không? Để ít nhất họ
được yên nghỉ, như cách nói hay của người Cơ Đốc giáo. Đó là lời hứa duy
nhất còn làm ông hy vọng có thể sẽ có một thế giới bên kia. Ý tưởng được
an nghỉ trong bình yên.
“Được rồi, mọi người dừng lại. Tôi cần một tấm vải khác. Màu gì cũng
được. Các cháu bé tránh ra xa ngoại trừ cháu đang chụp ảnh. Người lớn
chúng ta sẽ đào chiếc xe ba bánh lên và để nó vào tấm vải trắng. Rồi chúng
ta đưa tiếp thi thể lên và đặt vào tấm vải còn lại, được chứ? Sau đó, tôi sẽ
chở nguyên trạng tất cả về Oulan-Bator, tới viện pháp y. Nào, vào việc
thôi!”
Đó là một chiếc xe đạp ba bánh bé nhỏ và một thi thể nhỏ xíu. Họ nhanh
chóng đưa được chúng lên khỏi lòng đất. Đầu tiên, họ để chiếc xe đạp ba
bánh màu hồng lên tấm vải trắng, Yeruldelgger đến gần xem xét thật kỹ
lưỡng. Do lực tác động từ kẻ đã chôn nó xuống và của những trận mưa