ván, mỗi ngõ lại có một căn lều màu xám hay một ngôi nhà gỗ thô sơ. Để
đi vào Altanbulag, người lái xe có thể chọn bất cứ đường nào trong số
mười ngõ đó rồi chạy vào, mất hút như qua một cánh cổng có chấn song.
Và ngay sau đó, cậu ta chạy vào ngôi làng không có đường đi, với những
ngôi nhà được dựng chẳng theo hàng lối gì trên một khoảnh đất cũng mênh
mông như thảo nguyên ở xung quanh. Tất cả các con ngõ khi đó bỗng vỡ
tóe ra thành vô vàn lối đi nối liền tất cả các ngôi nhà trong một thứ hoa văn
cuộn xoắn không thể nhìn ra nổi.
Đến ngay giữa làng, Billy đột ngột ngoặt về phía Nam mà không giảm
tốc độ. Trên một bề rộng ba trăm mét, các lối mòn chạy về phía một căn cứ
quân sự Xô viết cũ mà người ta có thể thấy từ xa những tòa nhà thấp ẩn
mình ngoài thảo nguyên. Cậu thanh tra trẻ chỉ nới chân ga khi đã chạy xe
quá căn cứ, nơi đám người vô công rồi nghề mặc đồ rằn ri tàn tạ đang vật
vờ quanh những chiếc xe tải Nga nặng nề che bạt. Rồi cậu ta rẽ trái vào một
con đường nhỏ chạy xa khỏi chỗ đông người để tới vài căn lều nằm kề bãi
rác của doanh trại. Chính là nơi người đàn ông đợi họ. Ông ta có vẻ sợ chết
khiếp trước ý nghĩ phải đón tiếp tại nhà mình mấy cảnh sát tới từ thành
phố, và Yeruldelgger đã gọi ông là ‘cụ’ để trấn an. Ngay sau khi đưa họ vào
trong khoảnh đất nhà mình, bằng một cử chỉ khoát tay xin lỗi, ông chỉ cho
họ thấy chiếc xe. Hay đúng hơn là những gì còn lại của nó…
“Cậu chắc đây là chiếc xe chúng ta đang tìm chứ?” Yeruldelgger ngạc
nhiên hỏi.
“Không nghi ngờ gì nữa. Ông cụ đây đã giữ tấm biển số ở trong nhà. Nó
không bị cháy theo chiếc xe.”
“Làm sao nó lại tới đây được nhỉ?”
“Ông cụ làm công việc kiểu như buôn phế liệu, ông có thể thấy đống rác
nho nhỏ của ông cụ bên ngoài kia. Ông ấy làm việc chủ yếu với doanh trại,
nhưng cũng có các mối làm ăn trong thành phố, với những tay lớ ngớ ở chợ
ô tô. Người ta mang tới cho ông ấy những thứ có phần hơi bỏng tay, yêu
cầu ông cụ xẻ ra để làm chúng biến mất hoặc tẩu tán đi khắp nơi trong nước
dưới dạng mảnh phế liệu. Có lẽ cái xe đã đến tay ông ấy như thế.”