Chẳng hạn, cậu ta mua ở cửa hàng “Người thợ săn”, hai chiếc la bàn bỏ túi
có dạ quang và để kiểm tra lại, cậu ra đi làm theo một la bàn, ở nhà máy về
theo một la bàn. Cậu ta còn kiếm được một tấm bản đồ vùng U-ran và mấy
cuốn sách khoa học gì đó, rồi bằng một giọng như nghẹn lại vì hồi hộp, cậu
ra kể về các ngọn núi Tum, Mác-tai, núi lửa Pô-pốp, bởi vì cậu ta tin chắc
thể nào ông già Ba-khơ-chi-a-rốp cũng dẫn cậu ra và Xê-va tới đúng những
ngọn núi ấy. Một hôm Cô-li-a còn bảo rằng cậu ta đã quyết định sẽ cùng
Xê-va trích máu ăn thề với nhau.
- Bây giờ không ai đi làm cái chuyện gàn dở ấy đâu! – Cô-xchi-a giễu.
Các “sáng kiến” của Cô-li-a càng ngu xuẩn bao nhiêu, cậu ta càng tất
bật, say sưa bao nhiêu, thì Cô-xchi-a càng thấy tức cười bấy nhiêu. Sau
buổi nói chuyện với đồng chí bí thư đảng uỷ, em bỗng cảm thấy toàn bộ ý
định của Cô-li-a chỉ là một trò trẻ con, em lấy làm lạ không hiểu tại sao Xê-
va vẫn tiếp tục tham gia vào cái trò ấy, mặc dù không nhiệt tình như trước.
Nhưng có một điều Cô-xchi-a hết sức quan tâm, đó là việc giữ bí mật hoàn
toàn. Em ra lệnh cho hai bạn tuyệt đối không nói một câu nào ở nhà máy về
việc chuẩn bị cho chuyến đi. Cô-li-a tán thành ngay ý kiến đó. Cậu ta gọi
việc giữ bí mật là “nguyên tắc bảo mật “ và đề nghị khi tình cờ gặp nhau ở
nhà máy, ba người trong nhóm bí mật sẽ nháy mắt trái với nhau. Cô-xchi-a
coi đó lại là một trò ngu xuẩn nữa, cho nên em cố tính quên không nháy
mắt. Xê-va cũng theo gương bạn, thế là chỉ có Cô-li-a nháy mắt một mình.
Nguyên tắc bí mật được cả ba em giữ đúng. Vì vậy, Cô-xchi-a bị bất ngờ
hết sức khi thấy Nhi-na Páp-lốp-na biết chuyện Xê-va định đi trốn.