không thiếu thốn sau này. Tuy nhiên, khi nào nên nghỉ hưu và khi
nào nên khai báo hưởng an sinh xã hội là những quyết định đầy
khó khăn. Ở cuối chương này, chúng ta sẽ xem chính phủ Mỹ đưa ra
những cú hích nào để xử lý vấn đề này. Còn người ta thực hiện các
chương trình này như thế nào lại là một chuyện khác nữa. Có hai
vấn đề phát sinh. Một là giả định rằng tất cả mọi người đều có
khả năng giải được những bài toán phức tạp để biết sẽ phải tiết kiệm
bao nhiêu. Không có sự trợ giúp của phần mềm thì ngay cả các
chuyên gia kinh tế giỏi cũng khó tính toán thông suốt được. Vấn
đề thứ hai là giả định rằng mọi người có đủ ý chí để theo đuổi
chương trình tới cùng. Theo lý thuyết chuẩn thì những chiếc xe hơi
thể thao sang trọng hay những kỳ nghỉ mát xa xỉ không bao giờ chi
phối được họ, làm họ xa rời kế hoạch tiết kiệm vì sự bình yên tuổi
già. Nói ngắn gọn, lý thuyết chuẩn chỉ đúng với Econ, chứ không
đúng với Con người.
Trong hầu như suốt cuộc đời mình, Con người không phải lo
lắng nhiều về việc dành dụm cho tuổi già, vì đa số họ không
sống đủ lâu đến mức cần phải thu xếp trước một kế hoạch tiết
kiệm hưu bổng hoành tráng. Trước đây, người già thường được con cái
chăm sóc. Ở thế kỷ 20, tuổi thọ trung bình của con người ngày càng
cao, trong khi các thành viên trong gia đình ngày càng xa cách nhau
về mặt địa lý. Sự kết hợp đó làm cho người ta nghĩ rằng họ phải tự
thu xếp cuộc sống cho riêng mình chứ đừng trông nhờ vào bọn trẻ.
Cả chính phủ lẫn các chủ sử dụng lao động đều thực hiện những bước
đi thích hợp để giải quyết vấn đề này. Về mặt kiến trúc lựa chọn,
các chương trình hưu bổng mang một ý nghĩa tốt đẹp, nhân bản đối
với người tham gia, thậm chí cả những Con người vô tâm nhất về sự
bình an của mình. Tuy nhiên, những người làm công ăn lương phải
thực hiện quá nhiều bước, từ đăng ký tham gia, tính toán tuổi hưu và
số tiền tiết kiệm kỳ vọng, cho đến quản lý danh mục đầu tư tới
ngày về hưu… Đối với một bộ phận lớn trong số họ, quy trình này