lực tất cả những nơi ở trước đó. Vì vậy họ có thể mất nơi ở gốc của họ ở
nơi sinh, nơi ở của bố mẹ và những người thân thuộc của họ.
Vậy, không có một người thợ độc lập nào, dù là thợ thủ công hay
người lao động bình thường, có khả năng dành được một nơi ở mới bằng
cách học nghề hay làm công cho nhà chủ. Khi những người như vậy muốn
đến ở và làm việc cho giáo hội, mặc dù họ khỏe mạnh và chăm chỉ làm việc
đến thế nào đi chăng nữa, cũng sẽ bị đẩy ra khỏi xứ đạo tùy theo sở thích
của vị quản lý tài sản của giáo hội hay của vị giám thị, trừ khi họ thuê được
một phòng ở giá 10 bảng một năm, điều này là không thể nào thực hiện
được đối với một người không có tài sản nào khác ngoài sức lao động của
chính mình, hoặc trừ khi họ có thể đưa ra một sự đảm bảo về mặt thanh
toán các khoản tiền với xứ đạo như hai vị thẩm phán trị an cho là chấp nhận
được. Họ đòi phải có sự đảm bảo thanh toán các khoản tiền là bao nhiêu là
tùy theo sự định đoạt của họ, nhưng không dưới 30 bảng như đã được luật
pháp quy định, vì một bất động sản được quyền sử dụng tự do với giá trị
dưới 30 bảng sẽ không dùng làm nơi ở cho bất kỳ ai vì chưa đủ để thanh
toán đầy đủ với xứ đạo. Nhưng đó là một số tiền đảm bảo mà rất ít người
sống bằng sức lao động của mình có thể đưa ra được, và người ta còn luôn
luôn đòi số tiền đảm bảo lớn hơn nhiều.
Để phục hồi lại trong một chừng mực nào đó sự lưu thông tự do của
lao động mà các quy chế khác nhau đó đã hầu như hủy bỏ hoàn toàn, người
ta đã nghỉ ra và thực hiện việc cấp giấy chứng nhận. Dưới thời vua William
III, đã ban hành sắc luật quy định rằng bất kỳ người nào xuất trình một giấy
chứng nhận của xứ đạo nơi anh ta định cư hợp pháp với chữ ký của người
quản lý tài sản giáo hội và của người giám thị thì các xứ đạo khác phải tiếp
cận anh ta.
Đuổi một người mà không phạm tội gì ra khỏi xứ đạo, nơi anh ta đang
ở, là vi phạm quyền tự do và công lý.
Mặc dù những người biết suy nghĩ đôi khi than phiền về luật định cư
gây nên sự bất bình của quần chúng; tuy thế những lời than phiền của họ
chẳng bao giờ trở thành một tiếng vang lớn của quảng đại quần chúng. Ít
khi thấy một người nghèo ở Anh ở độ tuổi 40, tôi có thể nói như vậy, mà