THỜI KỲ THỨ HAI
C
ho dù ý kiến của những người hiểu biết về giá trị của bạc trong thời gian
đầu là khác nhau thế nào đi chăng nữa, thì những người đó lại đồng nhất ý
kiến về việc này trong thời kì thứ hai.
Từ 1570 tới 1640, trong một thời kì khoảng 70 năm, sự biến động về
tỷ lệ giữa giá trị bạc và giá trị ngũ cốc đã đi theo một quá trình diễn biến
ngược lại. Giá trị thực tế của bạc tụt xuống, hay nói một cách khác là chỉ
đổi được một số lượng lao động ít hơn so với trước, còn ngũ cốc đã tăng về
giá danh nghĩa của nó, và đáng lẽ ra thường được bán với khoảng 2 ounce
bạc 1 góc tạ Anh, hay khoảng 10 shilling theo giá tiền hiện nay, thì đã bán
được với giá 6 và 8 ounce 1 góc tạ Anh hoặc khoảng 30 hay 40 shilling
theo giá tiền hiện nay.
Việc phát hiện ra rất nhiều mỏ ở Châu Mỹ đã là nguyên nhân duy nhất
gây ra việc hạ giá trị của bạc so với giá trị của ngũ cốc. Ai ai cũng nói như
vậy và cũng không thấy có sự tranh cãi về sự việc đó hoặc về nguyên nhân
gây ra sự việc đó. Trong thời kỳ này, phần lớn Châu Âu đang có những
bước tiền về công nghiệp và về các mặt khác, và nhu cầu về bạc do đó đã
tăng lên. Nhưng do số cung tăng vượt quá xa mức tăng của số cầu, cho nên
giá trị của bạc tụt xuống đáng kể. Việc phát hiện ra nhiều mỏ ở Mỹ hình
như cũng chẳng có chút tác động đáng kể tới giá cả ở nước Anh cho đến
sau năm 1570; mặc dù kể cả những mỏ ở Potosi đã được phát hiện và khai
thác hơn 20 năm trước đó.
Từ 1595 đến 1620, giá trung bình một góc chín giạ Anh loại lúa mì tốt
nhất tại chợ Windsor, theo các bản giải trình của trường đại học Eton, là 2
bảng 1 shilling 6 penny ¾. Từ số tiền này, bỏ qua số lẻ và khấu trừ 1/9, hay
4 shilling 7 penny 1/3, thì giá một góc tám giạ Anh được tính là 1 bảng 16
shilling 20 penny 2/3. Và từ số tiền này, cũng bỏ qua số lẻ và khấu trừ 1/9,
hay 4 shilling 1 penny, vì có sự chênh lệch giữa giá loại lúa mì tốt nhất và