chỉnh bằng những giao dịch thanh toán giữa hai bên. Khi không một bên
nào nhập từ phía bên kia một số lượng lớn hơn phần xuất khẩu cho phía
bên kia, các khoản nợ và khoản cho vay được bù trừ cho nhau. Nhưng khi
một trong hai bên nhập từ bên đối tác một giá trị lớn hơn số xuất sang cho
phía bên kia, thì bên nhập siêu tất nhiên bị mắc nợ một số tiền lớn hơn là số
tiền mắc nợ của bên kia, như thế các khoản nợ và có không bù trừ được cho
nhau, và do đó tiền phải chuyển từ nơi có số tiền nợ vượt quá số tiền có.
Diễn biến thanh toán hối phiếu thông thường là một dấu hiệu của tình trạng
nợ và có giữa hai nơi, tất nhiên cũng là một dấu hiệu của quá trình diễn
biến xuất và nhập khẩu của cả hai bên vì xuất nhập khẩu tất yếu phải điều
chỉnh tình trạng nợ và cho vay.
Nhưng mặc dù sự diễn biến thông thường của việc thanh toán hối
phiếu phản ánh tình trạng nợ và có giữa hai nơi, cũng không phải vì thế mà
cán cân thương mại nghiêng về nơi có tình trạng thông thường về nợ và có
nghiêng về mình. Tình trạng thông thường về nợ và có giữa bất kỳ hai nơi
nào không phải luôn luôn hoàn toàn được điều chỉnh bằng quá trình giao
dịch và thanh toán giữa họ với nhau, mà nhiều khi còn chịu sự tác động của
những công việc giao dịch và thanh toán của một trong hai nơi đó với
những nơi khác. Nếu bình thường các nhà buôn ở Anh trả tiền mua hàng
của Hamburg, Dantzic, Riga, v.v… bằng các hối phiếu ký phát ở Hà Lan,
thì tình trạng thông thường về nợ và có giữa Anh và Hà Lan sẽ không hoàn
toàn điều chỉnh bằng quá trình giao dịch và thanh toán bình thường giữa hai
nước đó với nhau, mà sẽ bị tác động bởi những giao dịch và thanh toán
giữa Anh với các nơi khác nữa. Anh có thể phải chuyển tiền hàng năm cho
Hà Lan, mặc dù giá trị hàng xuất khẩu của Anh cho Hà Lan có thể vượt qua
rất nhiều giá trị số hàng nhập khẩu từ nước này, và dù cho cán cân thương
mại có thể nghiêng nhiều về phía Anh.
Ngoài ra, theo cách mà đồng giá hối đoái (the par of exchange) được
tính toán cho đến nay, tỷ giá hối đoái thông thường không thể cung cấp một
dấu hiệu đầy đủ chứng tỏ rằng tình trạng tiền nợ và tiền có thông thường có
lợi cho nước nào được coi hoặc giả định là có tỷ giá hối đoái thông thường
có lợi cho nước đó, hoặc nói một cách khác, tỷ giá hối đoái thực tế có thể,