râu trước gương vừa suy xét lại, cố gạt bỏ tính ương ngạnh thường lệ. Tôi
không phải là một kẻ có nhiều tình cảm, và tôi tin mình có thể kiềm chế
những xúc động, nhưng nghĩ đến điều này tôi vẫn cảm thấy cổ họng nghẹn
ngào, hơn cả khi tôi nghĩ rằng Ted đã chết.
Trước khi tôi mặc một cái sơ-mi và áo choàng, tôi lục trong hộp đựng khuy
áo và lấy tấm Hải Quân Bội Tinh mà Dillingham đã đưa cho tôi để dùng
làm dấu hiệu. Tôi gắn vào lỗ nút của chiếc áo choàng và sửa lại cho ngay
ngắn. Màu kim lọai lóng lánh nổi bật trên lớp vải sậm. Nhưng gan dạ tôi
không vững như thế.
Martin Allen vừa ăn điểm tâm xong thì tôi ngồi xuống. Ông ta hỏi tôi:
- Ông vừa lên xem Queenstown?
Tôi đáp:
- Vâng. Tôi thích ngắm Hải âu bay.
- Hôm nay cũng là một ngày tốt cho lũ vịt trời, nếu ông muốn ngắm loài
này. Nhưng tôi không biết hiện giờ có phải là mùa vịt hay không.
Ông ta mỉm cười với tôi và bỏ đi. Lúc bước qua cửa phòng ăn, ông ta dừng
lại để nói chuyện với MacInnes. Tôi sững sờ đến nỗi không nghe MacInnes
nói với tôi trong khi ông ta ngồi xuống bàn.
- Dunbar, tôi vừa chào ông, ông không nghe hay sao?
- Xin chào ông. Tôi xin lỗi vì đang suy nghĩ vẩn vơ.
- Tôi cũng nhận thấy thế. Ông đã lên xem Ái-nhĩ-lan?
- Vâng, đó là một xứ sở tuyệt đẹp. Tôi không hiểu vì sao người Ái-nhĩ-lan
đã rời bỏ miền này.
- Theo ý tôi, chắc cũng chỉ vì vấn đề cơm áo. Chào ông Mackintosh, sáng
hôm nay có gì đặc biệt không?
Nói đoạn ông ta gọi thức điểm tâm trong lúc tôi ngỡ ngàng ngồi im. Martin
Allen là người cuối cùng trên tàu mà tôi có thể nghi ngờ. Tôi đang mất xúc
giác, mất cả khả năng phỏng đoán.
Tôi đến gặp Allen trong phòng ông ta, trong lúc ông ta đứng ở khung cửa
sổ và chăm chú nhìn quang cảnh cuối cùng của Ái-nhĩ-lan đang biến dạng
vào chân trời. Ông ta quay người lại khi tôi lặng lẽ mở cánh cửa không
khóa.