tiếc xuất hiện giữa các nhà nghiên cứu lịch sử và các nhà nghiên cứu lí
thuyết phần lớn bắt nguồn từ “trường phái lịch sử”, trường phái đã bị tiếm
quyền bởi thứ quan điểm lai căng, tốt nhất nên gọi bằng cái tên duy sử luận,
thứ quan điểm chẳng phải là lịch sử mà cũng chẳng phải là lí thuyết.
Cái quan điểm ngây thơ vốn xem các liên hợp mà sử học nghiên cứu là
các tổng thể cho sẵn dễ dàng dẫn tới niềm tin là chúng ta có thể phát hiện ra
các “quy luật” về sự phát triển của các tổng thể bằng cách quan sát chúng.
Niềm tin này là một trong những nét đặc trưng nhất của bộ môn nghiên cứu
lịch sử duy khoa học dưới cái tên duy sử luận, cái bộ môn đã cố gắng tìm
kiếm một nền tảng thực nghiệm cho một lí thuyết về lịch sử hay (sử dụng
từ triết lí theo nghĩa cũ của từ “lí thuyết”) một “triết lí về lịch sử”, và cố
gắng thiết lập những tuần tự không thể tránh khỏi của “các giai đoạn” hay
“các pha” xác định, “các hệ thống” hay các “kiểu mẫu” trong tiến trình phát
triển của lịch sử. Một mặt, luận thuyết này cố gắng tìm kiếm các quy luật,
điều mà xét về bản chất không thể tồn tại ở đây, về sự kế tiếp tuần tự của
các hiện tượng lịch sử đơn lẻ và duy nhất, thì mặt khác nó lại khước từ khả
năng tồn tại của loại lí thuyết có thể thực sự giúp chúng ta hiểu được các
tổng thể duy nhất, cái lí thuyết mà chỉ ra những cách thức khác nhau theo
đó các phần tử quen thuộc có thể được kết hợp để tạo ra những tổ hợp duy
nhất mà chúng ta tìm thấy trong thế giới thực. Do vậy, định kiến kinh
nghiệm chủ nghĩa đã dẫn tới sự đảo ngược cái quy trình duy nhất giúp
chúng ta có thể hiểu được các tổng thể lịch sử: tái dựng chúng từ các bộ
phận cấu thành; nó đã khiến các học giả xem xét các tổng thể như thể
chúng là các khách thể quan sát được, khiến họ có ý niệm mơ hồ rằng các
tổng thể có thể hiểu được thuần túy bằng trực giác; và cuối cùng nó đã tạo
ra cái nhìn về các phần tử, những cái duy nhất mà chúng ta có thể nắm bắt
được một cách trực tiếp, những cái chúng ta bắt buộc phải dựa vào để tái
dựng các tổng thể, theo nghĩa trái ngược hẳn, rằng chúng có thể hiểu được
chi từ tổng thể, cái cần phải biết rõ trước khi chúng ta có thể hiểu được các
phần tử.