cuồng lao vào hai người: ông Movsar tránh được, còn người bạn săn không
kịp trở tay, cả hai dính vào nhau rơi từ vách đá xuống hẻm núi. Mọi người
chạy xuống thì chỉ tìm thấy người của mình, còn con gấu đã bỏ đi, để lại
trên mặt tuyết những dấu chân dính đầy máu. Chẳng bao lâu sau, lũ chó săn
đuổi kịp con gấu bị thương, đánh nhau với nó và quật nó ngã xuống, chúng
ta kịp đến, kết liễu luôn. Đau buồn về những gì vừa xảy ra, chúng ta khiêng
xác người đồng hương về làng, còn ông Movsar ở lại lột da con gấu, cắt
một tảng thịt to mang về, số thịt còn lại ném cho chó ăn. Một tuần sau,
những con chó săn của ta bỗng trở nên khác lạ, thậm chí dữ tợn. Ông Arts
của cháu, tức là cha ta liền bắn hạ ngay lũ chó, nhưng một tháng sau ông
Movsar đổ bệnh, ông ấy bị điên. Mọi người trói ông ấy vào gốc cây, gọi
thầy lang, gọi cả bác sĩ người Nga ở Shali đến, thảy đều vô ích. Cuối cùng,
ông ấy yếu dần, bị cảm lạnh do băng giá, rồi lại bị thương hàn và lặng lẽ
qua đời, thật ra như vậy cũng tốt cho ông ấy và gia đình… Ngay cả việc
tắm rửa thi thể cho ông ấy, người ta cũng sợ… Mọi câu chuyện thêu dệt,
đơm đặt sau này cũng từ đó mà ra, nhưng ta nghĩ, ông bác sĩ người Nga
đúng, ông ấy bảo, con gấu bị lây bệnh dại từ những con dơi, còn ông
Movsar và lũ chó bị lây từ con gấu.
Ông Baki-Haji còn chưa kịp kết thúc câu chuyện thì Tsanka đã bật dậy
khạc nhổ liên tục, hoảng sợ nhìn về phía cái hang, van vỉ:
- Bác ơi, chúng ta đi khỏi đây nhanh lên.
- Cháu làm sao thế, - ông linh mục mỉm cười nói. - Sau lần ấy, ta còn
vào trong hang cả ngàn lần, cháu thấy đấy, có sao đâu… Tuy nhiên, thật ra
mà nói, tất cả chúng ta đều là những kẻ dở dở ương ương.
Một con rắn mối dài ngoằng màu xanh ló đầu ra khỏi bụi cây làm lay
động tán lá còn sót lại từ năm trước, thành thạo nhảy lên tảng đá bên cạnh,
sưởi nắng, tuy nhiên, sau khi phát hiện thấy có người, nó bực bội quay đầu
rồi khéo léo chui vào khe đá.