màu mỡ của họ. Ngày nào cũng nổ ra những vụ ẩu đả, va chạm. Người
Vainakh phải bỏ ra một khoản tiền lớn để mua lại chính ngôi nhà của mình
mà họ đã bị đuổi ra, nếu bằng cách khác rất có thể họ sẽ bị tống vào tù hoặc
bị trừng phạt. Đêm nào cũng xảy ra các vụ phá hoại nhà cửa của người
Chechnya, những vụ đánh hội đồng hay đâm chém. Sáng hôm sau, công an
tuyên bố, người Chechnya có lỗi trong tất cả mọi việc, rằng họ đã gây nên
tình trạng hỗn loạn sau khi trở về Kavkaz. Hai tháng liền, trong thành phố
Grozny liên tục diễn ra các cuộc mít tinh, biểu tình yêu cầu phải phải tống
khứ những kẻ mọi rợ và tội phạm về vùng sa mạc Kazakhstan.
Mặc dù vậy, người Vainakh vẫn trở về quê hương, kiên trì đòi lại
mảnh đất và mái ấm của cha ông để lại, kiên quyết chống lại mọi hành
động tấn công, khiêu khích và phản ứng của những người chủ mới xuất
hiện.
Mãi đến năm 1959, gia đình Arachaev Tsanka mới có thể trở về quê.
Vào thời gian này, Tsanka và Gustan đã sinh thêm được một con trai, đặt
tên là Gerzany.
...
Ngày 22 tháng Hai năm 1944, trong ngôi làng miền núi Chechnya
Duts-Khote, có hai trăm bốn mươi sáu nhân khẩu sinh sống, ngoài ra còn
có ba mươi hai người tham gia chiến đấu trong lực lượng quân đội Xô viết.
Tổng cộng, dân số của làng là hai trăm bảy mươi tám người. Đến năm
1959, chỉ có một trăm năm mươi mốt người sống sót trở về làng, trong đó
có hai mươi bảy nhân khẩu sinh ra tại Kazakhstan. Bức tranh tương tự như
vậy cũng diễn ra ở tất cả các điểm dân cư khác. Bằng cách đó, hậu quả của
sự diệt chủng là dân số Chechnya và Ingushetia đã giảm xuống đúng một
nửa. Đó là chưa tính đến mức tăng dân số tự nhiên trong khoảng thời gian
mười ba năm. Nếu đưa chỉ số trung bình mức tăng dân số tự nhiên của
người Chechnya và Ingushetia vào phép tính thì kết quả là: cứ ba người
Vainakh chỉ còn lại một người sống sót.