nay.” Chỉ có Lauch và gia đình Ashman biết ông đã mắc bệnh AIDS
từ hơn một năm trước. Ashman từng rất lo sợ phản ứng từ Disney
khi nghe về căn bệnh tai tiếng và ác nghiệt này, nhưng thành công
của Little Mermaid đã cho ông thêm sức mạnh.
Ashman kể với Lauch rằng Katzenberg đã rất tử tế và tiếp
nhận thông tin đó một cách nhẹ nhàng. “Được,” Katzenberg nói. “Anh
cần những gì? Chúng tôi sẽ đáp ứng.” Schneider và Eisner cũng tỏ
thái độ cảm thông. Họ khá ngạc nhiên, nhưng rồi nhận ra rằng
đáng nhẽ họ đã phải đặt câu hỏi từ trước, khi thời gian gần đây
Ashman ngày càng ít xuất hiện ở California. Bằng một khoản chi
phí khổng lồ, Disney chuyển toàn bộ nhóm Beauty and the Beast tới
Residence Inn, một khách sạn dạng lưu trú dài ngày ở Fishkill, New
York, một thị trấn gần sông Hudson, cách nhà Ashman không xa.
Các buổi chiếu thử được tổ chức ở khách sạn. Ashman tiếp tục xem
xét các bảng truyện, viết ca từ mới cho các bài hát của Menken, thu
âm chúng bằng giọng hát ngày càng yếu đi nhưng vẫn vô cùng rắn
rỏi. Ông và Meken đã nghe một bản ghi âm vở nhạc kịch A little night
music (Khúc nhạc đêm) của Stephen Sondheim, và được truyền cảm
hứng từ sự hài hước tinh tế, vừa ngọt ngào vừa pha chút cay nghiệt
nơi các nhân vật của Sondheim.
Cũng giống như rất nhiều câu chuyện cổ tích cổ điển khác,
phiên bản gốc của Beauty and the Beast bị bao trùm bởi không khí
tối tăm cùng một cái kết không có hậu. Và cũng giống như
Mermaid, Ashman đề xuất một vài thay đổi khiến câu chuyện vừa
đem lại sự thỏa mãn về mặt cảm xúc, vừa phù hợp hơn với công thức
truyền thống của Disney. Ông chuyển sự tập trung từ cô nàng Belle
xinh đẹp nhưng có phần ngây thơ sang Quái thú với nội tâm phức
tạp hơn, một linh hồn thánh thiện bị nhốt trong một hình hài gớm
ghiếc, khiến khán giả dễ dàng đồng cảm với sự khao khát cháy
bỏng muốn có được tình yêu thương và một cuộc sống bình thường