của nhân vật. Đối thủ của Quái thú trong cuộc tranh giành tình yêu
của Belle cũng được thay đổi, từ một tên công tử bột thành gã trai cơ
bắp, đẹp trai, quai hàm bạnh mà vẻ hấp dẫn bên ngoài cùng những
định kiến giới tính hào nhoáng khiến anh ta trở nên trái ngược
hoàn toàn so với nhân vật chính. Xét từ quan điểm diễn họa hoạt
hình, Ashman đã có một ý tưởng vô cùng độc đáo là biến các đồ vật
vô tri trong bếp ăn của Quái thú thành các nhân vật sống động, rồi
đưa tất cả vào một ca khúc rực rỡ theo phong cách Broadway, Be
Our Guest. Nhưng không phải lúc nào Ashman cũng được rộng đường
làm theo ý mình. Katzenberg đã cắt bỏ một trong những bài hát của
ông, Human Again, vì cho rằng nó quá thừa thãi.
Nếu hệ thống máy tính CAPS vẫn còn đang ở thời kỳ sơ khai khi
Little Mermaid được thực hiện thì đến Beauty nó đã được khai thác
triệt để. Nó giúp tạo ra nhiều hình ảnh nền sống động và đẹp mắt
hơn. Trong một cuộc họp, Katzenberg có phàn nàn về cách trang trí
trần nhà nơi lâu đài Quái thú. “Hãy sửa trần nhà đi,” ông cương
quyết. “Làm giống như các lâu đài Pháp ấy, như tranh của
Botticelli ấy.” Mặc dù câu nói hớ về Botticelli vẫn bị các họa sĩ hoạt
hình cười nhạo, nhưng trần của lâu đài đã được vẽ lại vô cùng chi
tiết và rực rỡ.
Thời kỳ phục hưng của phim hoạt hình đã chính thức bắt đầu ở
Disney vào tháng Ba năm 1990, khi Little Mermaid giành hai giải
Oscar trong đó có Bài hát trong phim hay nhất trao tặng cho ca khúc
Under the Sea. Ashman và Menken lên nhận giải. “Ở nhà, mẹ tôi, chị
tôi, Nancy và Bill đều đang dõi theo tôi. Tôi thấy mình thật sự may
mắn,” Ashman nói. Chỉ sau khi nhận giải, Ashman cuối cùng mới
nói cho Menken biết ông đã mắc bệnh AIDS.
Ấn tượng hơn cả các giải thưởng và những lời khen ngợi không
ngớt của giới phê bình chính là tác động của Mermaid tới lợi nhuận
của công ty – không chỉ có doanh thu phòng vé mà còn cả doanh số