lộ. Nhưng đấy là Schneider nghĩ thế thôi. Trông Katzenberg rõ
ràng là vừa ngạc nhiên vừa giận dữ. Ai cũng hiểu ngay ra rằng Eisner
đã không nói gì với ông ta về kế hoạch xây một tòa nhà mới.
Khi sự phấn khích tạm lắng xuống, Beauty and the Beast được
chiếu lên màn ảnh rộng. Một vài khúc nhạc bị chen ngang giữa
chừng bởi tiếng vỗ tay giòn giã, bộ phim được hoan nghênh nhiệt
liệt. Không khí vui vẻ cứ thế bao trùm suốt bữa tiệc diễn ra sau đó
tại khách sạn Sheraton.
Nhà Eisner và nhà Disney không ở lại xem phim mà rời đi sớm để
ăn tối cùng nhau ở Sheraton, bỏ Katzenberg lại rạp hát. Trong suốt
bữa ăn, Eisner tỏ ra hả hê vì tuyên bố của mình đã làm Katzenberg
ngượng mặt – hay ít nhất đó là những gì mà hai viên quản lý tài
năng nghe được từ bàn kế bên đã kể lại.
Một tháng sau, Beauty and the Beast ra rạp trước sự tán dương
cuồng nhiệt của giới phê bình. Janet Maslin viết cho tờ New York
Times, “ Hai năm trước hãng phim Walt Disney đã sáng tạo lại một
tuyệt tác dưới dạng phim hoạt hình, với mục tiêu làm thỏa mãn không
chỉ trẻ em mà còn cả các khán giả lớn tuổi và từng trải hơn. Với Little
Mermaid, Disney đã thực sự rút ngắn được khoảng cách thế hệ,
mang đến cho thể loại phim này một sự đa dạng mới mà vẫn không
làm nhạt đi tinh thần tươi vui vốn có… Sét chắc chắn đã đánh hai
lần ở cùng một chỗ. Với Beauty and the Beast tác phẩm ngọt ngào,
trau chuốt và nhiều tham vọng hơn bộ phim trước đó, Disney đã
làm được điều trước nay chưa ai thực hiện được: kết hợp kỹ thuật
máy tính hiện đại với những gì tinh túy nhất của sân khấu
Broadway. Ở đây, dưới vỏ ngoài của một câu chuyện cổ tích thần tiên
dành cho trẻ nhỏ là những bản nhạc vui tươi, khoáng đạt mà từ lâu đã
gần như mất tích trên sân khấu… Thành công lớn nhất của các
nhạc sĩ có lẽ là bài hát chủ đề cho bộ phim, vô cùng ấn tượng nếu
so với nhiệm vụ không mấy hứa hẹn là sáng tác một ca khúc chủ đề