khác của công ty để đánh giá toàn bộ tình hình tài chính. Thực tế
cho thấy nó còn tệ hơn những gì Burke và Bourguignon vẫn cảnh
báo.
Gần như toàn bộ những giả định mà Disney đưa ra trong những
báo cáo nghiên cứu khả thi ban đầu được sử dụng để quyết định
ngân sách xây dựng đều khác xa so với thực tế. Thói quen đi nghỉ
của người Châu Âu không hề giống với người Mỹ, điều hoàn toàn
có thể dự báo trước được nếu Disney dựa vào những dữ liệu về châu
Âu chứ không phải lấy những kết quả thu được từ Disney World áp
đặt lên một bối cảnh hoàn toàn khác biệt. Ví dụ, tầng lớp trung lưu
ở
châu Âu có nhiều thời gian để đi nghỉ hơn là người Mỹ. Nhưng như
thế lại có nghĩa là họ chi tiêu ít hơn mỗi ngày để có thể trang trải
được toàn bộ kỳ nghỉ của mình. Họ không sẵn lòng ở lại những khách
sạn đắt đỏ như những gì Disney đã xây, cũng hoàn toàn không ăn,
uống, xem biểu diễn hay mua đồ lưu niệm nhiều như người Mỹ.
Tỷ lệ lấp phòng đạt ít hơn 50%. Không giống người Mỹ, 75% khách
tham quan Euro Disney đều đặt trước qua các đại lý du lịch. Hầu
hết người Mỹ thì gọi thẳng tới Disney để đặt phòng. Chi phí hoa
hồng cho các đại ký mà Disney buộc phải trả khiến lợi nhuận hao
tổn đáng kể. Với cơ cấu chi phí như vậy, Euro Disney sẽ không thể bù
đắp nổi chi phí hoạt động, chưa kể tới khoản nợ khổng lồ 3 tỷ đô la.
Thời tiết ấm áp cũng không giúp cải thiện tình hình được bao
nhiêu. Thực chất, Larry Murphy đã nhìn thấy rõ ràng rằng dù có
giả định một cách lạc quan nhất đi nữa thì Euro Disney vẫn không
thể có lãi. Tình thế quá trầm trọng khiến Disney nhanh chóng rơi
vào tình thế gần như sắp vỡ nợ, nhà băng và các chủ nợ chính có
khả năng sẽ buộc nó tuyên bố phá sản dự án, một nỗi hổ thẹn không
ai muốn nghĩ tới.
Quyết tâm buộc Eisner phải đối mặt với thực tế, Murphy đòi tổ
chức một kỳ họp kín trong thời gian hai ngày tại một khu nghỉ dưỡng