phiếu này không đủ để sa thải Case; tuy nhiên, hành động này cho
thấy nhiều cổ đông không còn niềm tin đối với Case nữa. Case từ
chức vào ngày 16 tháng Năm năm 2003.
Chiếu theo các tiêu chuẩn này, dường như Eisner và Disney trở
thành trụ cột của hành vi cẩn trọng khôn ngoan và biết đối nhân xử
thế. Mặc dù Disney cũng thua lỗ rất nhiều sau dự án Internet
thất bại nhưng sự thua lỗ này không thấm vào đâu so với Time
Warner bởi hợp đồng giữa Time Warner và AOL bị coi là hợp đồng
kinh doanh tồi tệ nhất trong lịch sử. Nhưng Eisner vẫn bị cuốn
vào vòng xoáy này. Rất nhiều vụ gian lận doanh nghiệp đã xảy ra
khiến hội đồng quản trị cũng ở vào tình thế bị động, thậm chí thỏa
hiệp và không thể bảo vệ lợi ích của các cổ đông. Có vẻ như hội đồng
quản trị của Disney vẫn luôn là một trường hợp đặc biệt. Sự độc lập
của hội đồng được thỏa hiệp bởi một loạt các mâu thuẫn về lợi ích
nhưng vì Sid Bass, một cổ đông nắm số cổ phần kiểm soát và là
đồng minh đáng tin cậy của Eisner, vẫn ở lại hội đồng nên hội
đồng không có thực quyền đối với hoạt động quản trị doanh
nghiệp; và Bass và Eisner luôn là người đưa ra những quyết sách
quan trọng. Trong thời khắc quan trọng này, Eisner đang phải đối
mặt với yêu cầu phải cải tổ vì Bass đã buông tay nắm quyền còn
Gold và Roy bắt đầu đòi hỏi sự độc lập.
Có lẽ Eisner có thể biến các yêu cầu phải cải tổ thành lợi thế cá
nhân. Trong cuộc họp hội đồng vào tháng Sáu, ông thông báo
Disney đã thuê Ira Millstein, viên đối tác cấp cao đáng kính tại
công ty luật Weil, Gotshal & Manges tại New York và là một chuyên
gia về quản trị doanh nghiệp, để đề ra các chiến lược cải tổ có thể
kiểm soát hội đồng quản trị của Disney. Mặc dù không ai nói rằng
cuộc cải tổ này đã sẵn sàng nhưng tiến trình cải tổ cũng tiềm ẩn
nguy cơ đối với những ai ủng hộ Gold và Roy. Nói cho cùng, rất
nhiều cuộc “cải tổ” đã diễn ra, ví dụ như giảm bớt quy mô của hội