Cũng như nhiều nhà dân tộc khác, lúc đầu Al-Sakakini không ủng hộ
sự độc lập. Năm 1919 ông viết: "Nếu Palestine bị tách khỏi số phận của nó
ắt sẽ trở thành Do Thái [. . .] hoặc rơi vào tay của chính quyền ngoại bang,
trên mảnh đất mà họ không còn tự trị nữa vì sự ngu dốt và quá khích tôn
giáo của dân chúng. Nhưng sự sụp đổ của giấc mơ về Đại Syria, khi quân
Pháp chiếm Damacus năm 1920, buộc người Palestine tập trung lại để cứu
vãn Palestine.
Al-Sakakini chỉ quá rành về những nhược điểm của dân chúng. Ông cố
khắc phục những khác biệt tôn giáo, nhưng phó mặc sự thất vọng của ông
cho lòng trung thành với bộ tộc của người Hồi giáo, những người tin rằng
"quyền lợi của gia đình họ ưu tiên hơn mọi quyền lợi khác". Trong bức thư
ông viết cho con trai trong thập niên 1930, ông lấy làm tiếc về sự ẩu đả và
sự vô hiệu của những cuộc biểu tình chính trị của Ả Rập: "Họ giống như thi
sĩ khi được cho biết là quân thù đã ở cửa ngõ thì lại bảo: “Tôi sẽ sáng tác
một bài thơ chống lại chúng”, như thể là thơ trào phúng có thể đẩy lùi mọi
hiểm nguy.
Năm 1920, Al-Sakakini viết trong nhật ký là ông phẫn nộ với cuộc bạo
động chống Do Thái sau lễ hội Nebi Musa năm 1920 khi người Hồi giáo la
ó "Tôn giáo của Muhammad được phát sinh bằng gươm giáo".Thế nhưng,
năm 1933, trong nhật ký ông lại bày tỏ lòng khâm phục sự chống đối ngày
càng mạnh của người Palestine.
Người Do Thái quá hoảng sợ khi thấy dân chúng vũ trang chỉ bằng giày tấn
công những khẩu súng máy và áp vào những người lính, kéo họ xuống khỏi ngựa và
giẫm đạp họ. Nếu họ có thể làm như vậy một cách tự phát và tay không thì hỏi liệu
khi được trang bị và tổ chức, hoặc khi toàn dân Ả Rập tham gia bạo loạn thì sao?
4. Cuộc chiến Trăm Năm