tường Than khóc." Các sách hướng dẫn của thế kỷ XIX mô tả cảnh người
Do Thái khóc trước công trình bằng đá đồ sộ:
Lạy Chúa, dân ngoại xâm lấn di sản của Người; chúng đã làm nhơ bẩn đền
thánh của Người; chúng đã phá Jerusalem thành các đống vụn [. . .] Chúng tôi bị
láng giềng thóa mạ, khinh miệt, nhạo cười. Bao lâu nữa, Chúa ơi? Liệu Người giận
dữ mãi sao? Chẳng lẽ lòng đố kỵ của Người cháy như lửa? (Thánh vịnh 79: 1,4-5).
Việc biến Palestine thành vùng đất thánh của người Kitô giáo khởi
cùng sự trở lại dạo của Hoàng đế Constantine. Sau Công đồng Nicea năm
325, Constantine lao vào chương trình xây thánh đường quy mô lớn ở
Palestine. Ông lệnh cho các nhân sĩ của Jerusalem dựng thánh đường trên
khu Jesus chịu chết: "với chi phí dồi dào và thoải mái, họ yên tâm hoàn tất
công trình vào hạng nguy nga".
Eusebius thuật lại trong cuốn Thân thế của Constantine, nơi Jesus chịu
đóng đinh và mai táng, Giám mục thành Caesarea thuộc thế kỷ thứ IV và là
người chép biên niên sử của Giáo hội thuở đầu, lúc đầu là đống rác, sau là
đền thờ của dân ngoại: "điện thờ tối tăm của những tượng thần vô hồn tới vị
thần ô uế mà họ gọi là thần Vệ nữ". Đá và gỗ của ngôi đền ngoại giáo bị
phân tán ở những khu xa, như mặt đất đã phủ hang mộ. Khi các công nhân
đào xuống, "bên dưới lớp phủ của đất, đã xuất hiện ngay, và ngoài mong
đợi, công trình kỷ niệm đáng kính và thiêng liêng về sự phục sinh của Chúa
Cứu thế"
Eusebius không ủng hộ truyền thuyết cho rằng Mộ Thánh do mẹ của
Constantine là Helena tìm ra. Chuyện kể rằng Helena bỏ đói một giáo sĩ cho
tới khi ông ta tìm ra chỗ bí mật của Mộ Thánh. Ba cây thập giá được tìm
thấy và, theo các truyền thống khác, cây Thập giá Thật được nhận ra bằng
cách dùng nó để dựng đứng một người đã chết hoặc chữa khỏi bệnh một
phụ nữ đau bệnh. Người ta còn tin rằng Helena đã xây dựng những thánh
đường ở nơi Chúa sinh ra tại Bethlehem và ở chỗ Chúa lên trời trên Núi
Olives.