dịch chống Do Thái, chúng ta phải đứng lên chống lại nó" Tổng thống nói.
Đang có điềm báo cho hoà bình và "lời hứa về một buổi chiều Sabbath
không bị vi phạm bởi tiếng súng".
Cuối bài diễn văn, Tổng thống Clinton tuyên bố niềm tin của ông trước
quốc hội Israel. Tổng thống kể lại sự kiện ông cùng vợ đã đến thăm Israel
lần đầu tiên 13 năm trước, khi là một thống đốc mãn nhiệm, ông đã có một
cuộc hành hương cùng với vị mục sư của ông. "Chúng tôi đã đến viếng các
nơi thánh. Tôi đã sống lại lịch sử của Kinh thánh, của các sách thánh của
quý vị và của tôi. Và tôi đã làm một lời thề với mục sư của tôi. Về sau, khi
ông này lâm trọng bệnh, ông nói ông nghĩ tôi sẽ có ngày trở thành Tổng
thống, và ông nói [. . .] (Nếu anh bỏ Israel, Thiên Chúa sẽ không bao giờ
tha thứ cho anh.) Ồng nói Thiên Chúa muốn rằng Israel, đất Kinh thánh của
dân tộc Israel, sẽ tiếp tục tồn tại muôn đời."
Viện Knesset vang dậy tiếng hoan hô. Nó chưa từng chứng kiến một
cảnh tượng như thế bao giờ. Những người cực đoan Ki tô giáo đến để tỏ
tình liên đới với Israel thường được coi là những đồng minh có ích, nhưng
là những kẻ cố chấp. Bây giờ Tổng thống của nước Mỹ, nước hùng mạnh
nhất thế giới, tuyên bố rằng sự ủng hộ của Mỹ cho Israel chính là một mệnh
lệnh của Thiên Chúa.
Hòa bình tại Trung Đông là một nỗi ám ảnh chính sách ngoại giao của
Clinton, chi phối thời giờ của ông cho tới ngày cuối cùng của nhiệm kỳ của
ông, cả khi ông sắp sửa phải đối phó một lần nữa với các vụ tai tiếng xung
quanh vấn đề nhận quà tặng, ban phát các ân huệ chính trị, và ban các lệnh
ân xá đáng tranh cãi trước khi rời chức vụ tổng thống.
Clinton từ lâu đã được chào đón tại Jerusalem như là vị Tổng thống
Mỹ ủng hộ Israel mạnh nhất. Một cách bất ngờ, sự quan tâm sâu sắc tới khu
vực cũng làm ông trở thành vị tổng thống Mỹ ủng hộ Palestine mạnh nhất.
Chính Clinton là người đã đưa Yasser Arafat đi qua cửa chính của Nhà