thật lòng đối với sự sống còn và thịnh vượng của Israel, một sự đấu tranh để
hoà giải sự ủng hộ này với các quan tâm chiến lược của Mỹ trong thế giới Ả
Rập. Cho dù người Do Thái ưa thích các tổng thống đảng Dân chủ hơn và
người Ả Rập hướng về các tổng thống đảng Cộng hòa, nhưng vấn đề này
vượt ra ngoài sự phân biệt đảng phái; đã từng có những tổng thống đảng
Dân chủ như Jimmy Carter từng răn đe Israel và tổng thống đảng Cộng hòa
như Ronald Reagan coi Israel là một "đồng minh ngoài khối Nato".
Nếu theo tính toán chiến lược lạnh lùng, Mỹ sẽ chọn ủng hộ người Ả
Rập, vì họ đông dân hơn người Do Thái và kiểm soát phần lớn các nguồn
dự trữ dầu thế giới. Điều này cho thấy là việc Mỹ ủng hộ Israel, tuy không
lay chuyển, nhưng là có điều kiện. Đa số Tổng thống Mỹ, gồm cả Clinton,
thích làm việc với các lãnh tụ Israel sẵn sàng có những thỏa hiệp về đất đai
với người Ả Rập. Không lạ gì quan hệ của Clinton với Yitzak Rabin,
Shimon Peres, và Ehud Barak thắm thiết hơn với Binyamin Netayahu.
Người Ả Rập và nhiều người chỉ trích Israel đổ lỗi cho việc Mỹ ủng hộ
Israel vì hậu quả tai hại của "hành lang Do Thái" đầy quyền lực tại Mỹ, đặc
biệt tại Quốc hội. Tổng thống George Bush (Cha), khi đấu trí với Yitzak
Shamir, đã có lần than thở rằng mình là "một gã đơn độc... chống lại hàng
ngàn người vận động hành lang trên Đồi". Đúng là người Mỹ gốc Do Thái
là những mạnh thường quân chính trị và những nhà vận động tích cực đại
diện cho Israel. Tại một ít bang như New York, người Do Thái chiếm một tỉ
lệ cử tri quan trọng.
Nhưng những nhà vận động hành lang Israel không thể thành công nếu
chỉ nhờ vào sức mạnh kinh tế và chính trị. Họ chỉ có thể thắng nếu đánh
trúng sợi dây tâm lý thâm sâu nhất của Mỹ. Đối với những người có tâm
tình tôn giáo như Clinton, Israel là một biểu hiện ý muốn của Thiên Chúa ở
dưới đất này. Đối với những người tự do, Israel là một điển hình của nền
dân chủ tồn tại trong một môi trường nghiệt ngã. Đối với những người bảo