Haram al-Sharif, nơi mà cho tới sự giải phóng của Ottoman hồi thế kỷ
XIX bị những người không phải Hồi giáo bỏ quên, vẫn nằm ngoài phạm vi
của các ngày thứ Sáu. Nhiều năm rồi, biết bao lần tôi đã bò trên các mái nhà
của cổ Thành, trốn tránh cảnh sát Israel và xin tha cho các gia đình, tìm chỗ
cao trên bức tường để nhìn các tín đồ. Cuộc hành trình của tôi thường là nỗ
lực phí phạm theo nghĩa của một phóng viên-những bùng phát bạo động ở
Jerusalem hiếm khi có thể đoán trước-nhưng tôi chẳng bao giờ ân hận
những giờ phút trôi qua để nhìn người mộ đạo bên dưới. Quyền năng thu
gom vào những lời cầu nguyện của tín đồ Hồi giáo là một cảnh uy nghi.
Haram al-Sharif vẫn thanh bình cả khi thành phố bị nêm chặt với hàng
mươi ngàn người sùng bái. Quảng trường mở của nó làm cho những nẻo
đường của cổ Thành bít kín, quanh co bớt căng. Những đài kỷ niệm của nó
nổi bật lên, không bị chắn bởi những tòa nhà khác. Cảnh đặc khít của những
hàng người cúi rạp trên đất như một khối duy nhất thật ngớ ngẩn nhưng là
sự tuyền tín mạnh mẽ nói lên sự đồng nhất của Hồi giáo trước Thiên Chúa.
Vào cuối giờ cầu kinh, tín đồ Hồi giáo nhanh chóng tản đi, hòa vào
nhóm các nữ tu Ý mang máy ảnh và quyển kinh thánh ở Via Dolorosa.
Theo truyền thống cầu nguyện kính cẩn trước thi hài của Chúa vào những
ngày lễ lớn, đám đông tiến tới nghĩa trang nằm trước cổng được đóng hai
lần thật lạ kỳ dẫn vào Haram al-Sharif. Đây là chủ đề của những truyền
thuyết xung đột, bao gồm những xác quyết cho rằng hoặc Elijah hoặc Jesus
sẽ vào thành phố qua chỗ này vào ngày Tận thế. Các tín đồ Hồi giáo bị cáo
buộc (bởi các Kito hữu và Do Thái) là đã đào nghĩa trang tại chốn này để
ngăn không cho Đấng Cứu thế trở lại vì khi tiếp xúc với nghĩa trang sẽ làm
Ngài mất tính chất thiêng liêng. Tuy nhiên, việc định vị của nó có nhiều
điều hơn nữa có liên quan với sự thể là các tín đồ Hồi giáo, giống như
người Do Thái và Kito giáo, đặt chỗ của Ngày Phán xét ở hẻm bên dưới,
Thung lũng Kidron. Truyền thống Hồi giáo bảo rằng một thanh gươm, một