sự thống nhất về phạm vi chiến trường. Tướng Westmoreland chỉ là tư lệnh
mọi lực lượng trên chiến trường miền Nam. Ông không có quyền hạn gì ở
bên ngoài biên giới. Trong phạm vi chiến trường do mình phụ trách,
Westmoreland vạch chiến lược tiến hành chiến tranh chống quân đội Bắc
Việt Nam và Việt Cộng. Mặc dù chủ trương hoạt động phải được
Washington và Bộ tư lệnh Thái Bình Dương thông qua, về cơ bản ông là
người quyết định cách thức tiến hành chiến tranh trên bộ. Trong Lầu Năm
Góc, các chủ trương của Westmoreland thường được Hội đồng tham mưu
trưởng liên quân chấp nhận vì về bản chất đó là cách tiếp cận của trường
phái chính thống. Còn Bộ tư lệnh Thái Bình Dương, đứng đầu là một đô
đốc hải quân, thường ít can thiệp. Liệu một vị đô đốc thì biết gì về việc
chiến đấu trên mặt đất?
Về mặt kỹ thuật, Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương có trách nhiệm quân
sự về toàn bộ chiến trường Đông Nam Á. Tuy nhiên trên thực tế, trách
nhiệm chủ yếu của ông là chỉ huy các đơn vị không quân và hải quân Hoa
Kỳ thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu ở Nam Việt Nam, Bắc Việt Nam, Lào
và Campuchia.
Đô đốc Grant Sharp và Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Thái Bình Dương từ
1964 -1972, John McCain xin ý kiến Washington về mọi hoạt động ném
bom. Mặc dù cũng phải làm tương tự, tư lệnh của MACV có khả năng linh
hoạt hơn trong việc hình thành chủ trương hoạt động so với Grant và
McCain, ít nhất là cho đến khi tình hình trở nên tồi tệ năm 1968. Các chiến
dịch ném bom do Bộ tư lệnh Thái Bình Dương bị Washington kiểm tra gắt
gao hơn so với chiến dịch trên bộ. Một phần là do chiến tranh trên không dễ
hiểu và hình dung hơn. Gần như mọi buổi sáng, tại văn phòng của Bộ
trưởng và Thứ trưởng Quốc phòng đều treo một sơ đồ cỡ lớn cho thấy
những mục tiêu bị tấn công đêm hôm trước và mục tiêu dự kiến sẽ không
kích vào ngày hôm sau. Không có cách tương tự để thể hiện hàng chục cuộc
đụng độ trên bộ xảy ra ở miền Nam trong cùng thời gian đó. Khía cạnh này