của chiến tranh được kiểm soát chặt chẽ nhất bởi vì các chiến dịch không
kích được thu gọn và dễ hiểu như một cuốn truyện tranh.
Ở Lào và Campuchia, Sharp và McCain phải tính đến vai trò của vị đại sứ
đầy quyền lực. Để kiềm chế Lầu Năm Góc và CIA ở nước ngoài, tổng
thống Kenedy đã có những bước đi tăng cường quyền lực cho các vị đại sứ
của mình nhằm đảm bảo họ hoàn toàn phụ trách mọi hoạt động của Mỹ ở
nước sở tại. Vì vậy, trong khi Lào có vai trò cực kỳ quan trọng trong chiến
lược tiến hành chiến tranh của miền Bắc, đó là vùng cấm đối với MACV và
Bộ tư lệnh Thái Bình Dương. Muốn làm gì ở đó đều phải qua đại sứ
Sulivan. Ở Campuchia cũng tương tự: đại sứ Mỹ đầu tiên là Leonard Urger
năm 1964 là một người đầy quyền lực trong việc cho phép các hoạt động
quân sự công khai hoặc bí mật được tiến hành ở đó.
Tuy nhiên, trên đây không phải là những yếu tố duy nhất hạn chế việc sử
dụng công cụ ngầm chống Hà Nội của giới lãnh đạo quân sự. Ngoại trừ đô
đốc Felt, tư lệnh Bộ chỉ huy quân đội Thái Bình Dương trong thời kỳ 6
tháng đầu của SOG, không có chứng cứ gì cho thấy giới lãnh đạo quân sự ở
Honolulu quan tâm nhiều đến hoạt động ngầm. Trong trường hợp của Felt,
sự quan tâm của ông giới hạn trong các hoạt động ngầm trên biển chống
phá miền Bắc. Vào lúc bấy giờ, đó là một trong số ít sự lựa chọn sẵn có cho
tư lệnh chiến trường. Khi sự dính líu của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam lên
đến đỉnh cao vào năm 1965, đô đốc Sharp người thay thế Felt không để ý
đến hoạt động của SOG. Giờ đây, Việt Nam là cuộc chiến tranh theo kiểu
Mỹ với lực lượng lớn và chiến lược theo quy ước. Hoạt động ngầm không
còn hấp dẫn đối với giới lãnh đạo hải quân cao cấp và Sharp là dẫn chứng
của quan điểm này. Tốt nghiệp học viện hải quân 1927, ông chỉ huy một tàu
khu trục trong chiến tranh thế giới thứ hai. Sau chiến tranh, con đường dẫn
ông đến vị trí đô đốc bốn sao là công tác trong lực lượng hải quân chính
thống.