cả hoạt động ngầm, là lãnh địa của riêng mình. Trong khi sẵn sàng cộng tác
với quân đội trong các hoạt động hỗn hợp, CIA tin rằng họ phải là người
điều hành, còn vai trò của quân đội là cung cấp những hỗ trợ cần thiết. Lập
luận này chẳng đáng đồng xu nào khi CIA không có nổi một điệp viên nằm
vùng để giúp cho chiến dịch giải phóng con tin ở Iran năm 1980.
Trong một số trường hợp khác, phương pháp tiếp cận trên lại mang lại hiệu
quả. Trong nửa cuối thập niên 80, Trung tâm chống khủng bố được thành
lập ở CIA. Các cơ quan khác, trong đó có quốc phòng, có trách nhiệm giúp
CIA giải quyết vấn đề khủng bố. Mối quan hệ này tỏ ra thành công và
những trung tâm khác được thành lập để giải quyết các vấn đề của tội phạm
có tổ chức và sự phổ biến vũ khí phá huỷ hàng loạt.
Bất chấp những diễn biến này, sự va chạm nghề nghiệp tiếp tục tồn tại giữa
CIA và những cơ quan tham gia vào hoạt động ngầm đặc biệt. Điều này đặc
biệt đúng trong kỷ nguyên sau chiến tranh lạnh khi mà các chuyên gia trong
và ngoài chính phủ Hoa Kỳ lập luận rằng nên giao cho Bộ chỉ huy hoạt
động đặc biệt, SOCOM, chịu trách nhiệm hàng đầu đối với một số thách
thức an ninh mới đòi hỏi giải pháp bí mật. Tương tự như chỉ thị của Hội
đồng an ninh quốc gia số 57 trong những năm đầu 1960, những đề nghị này
không giúp gì cho việc hợp tác liên cơ quan.
Thành lập mối quan hệ công tác vững chắc với chính phủ Nam Việt Nam
cũng tỏ ra là một việc vô cùng khó vì SOG sợ rằng đối tác của mình bị tình
báo đối phương xâm nhập. Giải pháp cho tình trạng này là gạt Tổng nha kỹ
thuật chiến lược ra khỏi hoạt động càng nhiều càng tốt. SOG có thể làm như
vậy nhưng phải trả giá. Với giải pháp này, SOG không thể khai thác được
năng lực và kiến thức tại chỗ cần thiết cho hoạt động chống lại miền Bắc.
Hơn nữa, giải pháp này đặt ra một vấn đề lớn hơn là chính phủ Hoa Kỳ có
thể và nên thay thế cho chính phủ chủ nhà ở mức độ nào.
Mối quan hệ công tác đó là vấn đề tế nhị. Học tập người Bắc Việt Nam, các
chính phủ khác đã sử dụng những biện pháp đối phó tương tự khi xảy ra