đó nhanh chóng thay đổi lập trường. Lật đổ Hussein được coi là gây mất ổn
định chính trị quá lớn đối với Irắc và khu vực. Washington chỉ duyệt một
khoản tiền viện trợ nhỏ nhoi cho đảng Đại hội dân tộc Irắc. Mục đích của sự
trợ giúp này không rõ ràng. Chính quyền Clinton kế thừa chương trình
nhưng cũng không dám đi quá xa. Phong trào chống đối sụp đổ khi Saddam
Hussein quyết định đóng cửa các căn cứ nhỏ lẻ ở miền Bắc năm 1966. Hoa
Kỳ từ chối không hỗ trợ không quân để chặn đứng dòng xe bọc thép của
Saddam và lực lượng chống đối bị đè bẹp.
*
* *
Bất chấp sự e dè của Nhà Trắng và các giới hạn chính trị mà Washington áp
đặt, trong năm 1968, SOG bắt đầu có tác động mà Kenedy hình dung năm
1961. Thành tích của SOG sẽ còn lớn hơn nếu hoạt động của nó không bị
giới hạn bởi các nhà vạch chính sách ở Washington, những người luôn báo
động về hệ quả của việc gây mất ổn định Hà Nội. Họ sợ rằng điều đó có thể
đưa Trung Quốc dính líu vào chiến tranh hoặc làm cho Matxcơva có phản
ứng. Đồng thời, họ còn e ngại về thất bại chính trị mà hoạt động ngầm có
thể gây ra nếu như chúng bị phơi bày ra ánh sáng. Đối với Washington,
những vấn đề này quan trọng hơn là những khó khăn mà hoạt động của
SOG có thể gây ra cho Hà Nội.
Trong những năm 1980, chính quyền Reagan gặp một tình huống có những
nét tương tự. Sau khi Liên Xô chiếm đóng Afganistan, phong trào
Mujahideen được thành lập và bắt đầu làm đau đầu Matxcơva nhưng chưa
đủ mạnh để buộc người Xôviết phải rút lui. Hoả lực không quân đã ngăn
cản họ. Chính quyền cung cấp tài chính, nhưng Mujahideen cần vũ khí để
vô hiệu hoá lực lượng không quân Liên Xô và câu trả lời là tên lửa phòng
không Stinger. Tuy nhiên, nếu cung cấp vũ khí cho họ, chiến tranh sẽ leo
thang. Những phản ứng tiềm tàng của Liên Xô đối với hành động này làm
cho giới chuyên nghiệp ở CIA hoảng hốt và chống lại việc cung cấp vũ khí.