bàn đạp để phát động các cuộc tấn công vào Nam Việt Nam. Khởi đầu với
mật danh "Shining Brass", chương trình này có các toán thám báo người
thiểu số do nhân viên thuộc lực lượng đặc biệt Mỹ chỉ huy. Đến năm 1967,
hoạt động thám báo qua biên giới được mở rộng sang Campuchia và mang
mật danh mới "Daniel Boone".
SOG còn có một bộ phận nghiệp vụ nữa giữ vai trò là người tiếp tế qua
đường hàng không cho tất cả các hoạt động bí mật chống lại miền Bắc và
tập trung vào đường mòn Hồ Chí Minh. Mật danh của hoạt động đường
không này là "Midriff”. Bộ phận này quản lý các máy bay và trực thăng của
SOG.
SOG luôn luôn đặt dưới sự chỉ huy của một đại tá bộ binh Mỹ. Với chức
danh tư lệnh của SOG, người chỉ huy cần có kiến thức về các hoạt động
chiến tranh đặc biệt. Nếu SOG là một bộ phận cấu thành của chiến lược
chiến tranh chung ở Việt Nam, tư lệnh của SOG cần phải thích ứng với mối
quan hệ công việc với các quan chức lãnh đạo của Bộ chỉ huy viện trợ Mỹ ở
Việt Nam và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân. Người đó cần có sự tiếp
xúc với một quan chức cao cấp nhất và phải được coi như là một thành viên
trong câu lạc bộ của họ. Nếu không SOG rất dễ dàng bị gạt ra rìa và không
liên quan gì đến nỗ lực chính của cuộc chiến.
Do vậy việc lựa chọn tư lệnh cho SOG có ý nghĩa quyết định. Điều này đặc
biệt đúng trong bối cảnh vị trí đó không được giao cho một sĩ quan cấp
tướng cùng với những quyền hạn và quan hệ kèm theo. Trong khi các quan
chức dân sự cao cấp ở Washington có vẻ nhiệt tình với chiến tranh đặc biệt
thì các bạn đồng nghiệp của họ ở Lầu Năm Góc lại có thái độ khác hẳn. Các
quân chủng nói chung và lục quân nói riêng không hề nhiễm cơn sốt chiến
tranh đặc biệt của chính quyền Kenedy mà có quan niệm ngược lại. Thái độ
thiếu nhiệt tình, thậm chí lãnh đạm của giới quân sự được phản ánh qua
cách thức giới lãnh đạo lục quân cưỡng lại yêu cầu phát triển năng lực
chống bạo loạn của tổng thống Kenedy. Andrew Krepinevich, trong tác