Đảng Quốc-Hội liền tố cáo người Anh cố tình lợi dụng sự bất hòa giữa
hai tôn giáo để làm lợi-khí ngăn cản bước tiến của dân tộc Ấn trên đường
độc-lập.
Trong khi ấy thì chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ.
Ngày 7 tháng chạp, Nhật-bản đánh úp Trân-Châu-Cảng. Hôm sau, quân
đội Thiên hoàng chiếm đóng Thượng-Hải. Rồi từ các căn cứ dọc biên thùy
Thái-Lan, người Nhật một mặt xuống đánh Mã Lai của Anh, một mặt tiến
vào Miến-Điện. Ngoài biển thì hạm đội Nhật đã phá vỡ một lúc hai chiếc
hạm tối tân của Anh là chiếc Repulse và chiếc Prince of Wales, làm cho lực
lượng thủy quân của Anh tại Á-Đông suy sụp không sao ngóc đầu dậy được
nữa.
Tháng chạp 1941, Nhật chiếm Hương Cảng. Tháng hai năm sau. Tân-
Gia-Ba đầu hàng. Tháng ba, chiếm đóng toàn thể Nam-Dương Quần Đảo.
Rangoon, kinh đô Miến Diện bị hạ ngày 6 tháng 3. Trên đất Bắc Phi thì
tướng quốc xã Rommel đuổi các chiến xa thập ngoặc đến tận cửa ngõ Ai
Cập. Nhiều quan sát viên quân sự đã nói đến một cuộc gặp gỡ của quân Đức
và quân Nhật trên đất Ấn. Chưa bao giờ số phận chiến tranh tỏ ra bi thảm
với Đồng Minh như đầu xuân năm ấy.
Dư luận Mỹ rất phàn nàn về thái độ dửng-dưng của dân tộc Ấn trước sự
sụp đổ chỉ còn tính ngày giờ của Anh. Song đã có thời kỳ sống dưới ách
thực dân của Anh, họ hiểu rõ người Ấn muốn gì, mặc dầu Anh cố tình bưng
bít. Bởi thế Tổng Thống Roosevelt liền phái Đại Tá Louis Johnson tới Ấn để
liệu chiều thu xếp một sự thỏa thuận giữa Phó vương Anh và các lãnh tụ Ấn.
Ông lại khuyên Churchuill hãy nhượng bộ cho dân tộc Ấn một vài khoản
căn bản để an lòng dân. Tưởng-Giới-Thạch đồng minh với Anh Mỹ, cũng
bênh vực những nguyện-vọng chính đáng của người Ấn.
Bị ép bốn bề, mãi Churchill mới chịu phái Sir Stafford Cripps sang Ấn.
Tới nơi ngày 22-3-1942, đến ngày 25 thì ông bắt đầu cuộc thăm dò ý kiến
các lãnh tụ Ấn. Sir Stafford Cripps gặp Cam Địa. Ngày 27, ông đưa cho