thì đam mê những tác phẩm về nghệ thuật, khoa học, lịch sử và trên hết là
triết học. Có những cụ từ triết học đã trở thành khuôn mẫu trong văn học
báo chí. Hitler lúc nào cũng nói tới “các khái niệm” hay những thứ “theo
đúng nghĩa của nó”. Không chỉ thế, ông ta còn luôn cố gắng tỏ ra mình
cũng là một người có văn hóa. Đó là lý do để ông ta viết những câu văn dài
dòng, khó hiểu mà chính bản thân ông ta còn thấy rối tinh lên chẳng biết
đâu mà lần; hay là dùng toàn những lời khoa trương khoe mẽ để mở đầu
cho Chương Mười.
Sự thiếu tinh chuyển động và phát triển trong cuốn “Đời tranh đấu của tôi”
hẳn là có liên quan tới việt Hitler ít chú tâm tới thế giới khách quan. Tuy
nhiên cái lối diễn đạt chuộng sử dụng thể từ nhiều hơn đồng từ một lần nữa
khẳng định Hitler chịu ảnh hưởng của văn phong báo chí Đức. Rất nhiều tác
giả người Đức, trong đó có cả các học giả hàn lâm, dường như cho rằng thể
từ là loại từ mạnh nhất và có tính cảm xúc sâu sắc nhất. Xu hướng chuộng
thể từ còn thấy cả trong các báo cáo của giới cảnh sát Đức. Thay vì nói
“người này bị bắt” họ sẽ nói là “việc bắt người này đã diễn ra”. Cách nói đó
cũng là đặc điểm nổi bật nhất trong phong cách của Hitler.
Đôi khi, bên cạnh những câu cú nặng nè, tẻ nhạt, Hitler bỗng như bị đánh
thức bởi một cơn thịnh nộ. Thế là ông ta vứt bỏ hành trang quen thuộc của
mình và cho ra đời một bài diễn văn đầy tính hùng biện và chỉ trích mạnh
mẽ.
Nét đặc trưng và khác thường trong phóng cách của Hitler nói chung không
gây nhiều khó khăn cho dịch giả. Việc kết hợp phép ẩn dụ cũng thường thấy
trong các ngôn ngữ nào. Một Hitler của ngôn ngữ Anh cũng có thể rườm rà
dài dòng như một Hitler người Đức mà thôi; một nhà văn học hành dang
dở, với những ý tưởng không được rành mạch cho lắm, thường cho rằng
nếu nói một điều gì đó mà không lặp lại thì không nhấn mạnh được tầm
quan trọng.
Tuy vậy có những nét tiêu biểu trong phong cách Hitler mang đậm đặc
trưng ngôn ngữ Đức cũng khiến người dịch gặp khó khăn, chủ yếu là ở chỗ
các câu văn rất dài và sử dụng nhiều thể từ và tiểu từ.