còn nghiện sử dụng những từ như vậy, và phải đến một nửa các câu văn của
Hitler sử dụng đầy rẫy các tiểu từ đó, đấy là chưa nói đến những từ mà cá
nhân Hitler hết sức chuộng như besonders và damals xuất hiện tràn lan
không cần thiết. Thậm chí các tiểu từ mà Hitler sử dụng còn mang một ý
nghĩa chính trị nhất định bở lẽ theo những bộ óc tư sản bé nhỏ, các tiểu từ,
giống như những thứ đồ được chạm khắc, là hiện thân của những giá trị đặc
trưng Đức. Hành vi tránh không dùng tiểu từ được coi là có tính ngoại lai
và hiện đại. Tiếc là trong quá trình dịch, tôi buộc phải lược bỏ hầu hết các
tiểu từ bởi không tìm được từ tương đương trong tiếng Anh.
Bản dịch này dựa trên ấn bản đầu tiên. Những thay đổi thúc vị hơn trong
các lần tái bản bằng tiếng Đức sau này đã được nêu ở mục ghi chú. Khi sự
diễn đạt của Hitler thách thức tính cả tin của độc giả, tôi đã trích các dẫn
các câu nguyên văn tiếng Đức trong mục ghi chú. Trăm nghe không bằng
mắt thấy.
LỜI GIỚI THIỆU CỦA ABRAHAM FOXMAN
Gần sáu mươi năm sau khi Đại chiến thế giới lần 2 kết thúc, “Đời tranh đấu
của tôi” vẫn không bị biến thành một tư liệu lịch sử thuần túy. Mở luận
thuyết trong đó đã bị gạt ra từ lâu, ảnh hưởng hiện thời của cuốn sách cũng
được hạn chế tối đa nhưng nó vẫn không chấp nhận trở thành một văn bản
chính trị lỗi thời. Cứ nhắc đến cuốn sách xem, thế nào cuộc nói chuyện
xoay quanh đó là sẽ trở nên rắc rối; nói đến cuốn sách này, vài nước khác
còn tìm cách ngăn chặn việc dịch cuốn sách. Việc tái bản cuốn sách không
phải là một sự kiện truyền thông quan trọng nhưng lại khơi dậy sự phản
kháng, chống đối và đôi khi cả những vụ kiện cáo.