quyền lực - mặc dầu sự hạn chế đó rất tầm thường, nhưng nếu như nó thực
sự đụng chạm đến quyền lực tối cao - thì kẻ đó chính là Na-pô-lê-ông.
Ngay từ những ngày đầu sau cuộc đảo chính, sự hiểu lầm ngốc nghếch
của những kể ủng hộ Na-pô-lê-ông đã tan như mây khói, đặc biệt là Xi-ay-
ét, nạn nhân của sự hiểu lầm ấy trong suốt thời gian trước Tháng Sương
mù.
Khi Xi-ay-ét trình lên Bô-na-pác một bản dự án, theo đó, Bô-na-pác phải tự
khuôn mình trong những chức vụ của một viên quan tư pháp tối cao trong
nước (giống như tổng thống nước cộng hoà sau này), có danh vọng cao
nhất và hưởng lương cao bổng hậu, nhưng giao quyền cai trị cho một số
người khác, do Bô-na-pác chỉ định, không phụ thuộc vào Bô-na-pác, thì
ông ta đã tuyên bố: "Tôi không đóng vai trò lố bịch như vậy đâu" và kiên
quyết bác bỏ dự án của Xi-ay-ét. Tìm cách cố giữ ý kiến và bàn cãi, Xi-ay-
ét liền được viên bộ trưởng công an Phu-sê đến thăm, và Phu-sê đã thân
mật tâm sự với Xi-ay-ét, khuyên nên chú ý đến cái thực tế là Bô-na-pác đã
tập trung tất cả lực lượng vũ trang của nước Pháp vào trong tay, vì thế nên
nếu cứ cố tình tranh cãi mãi với một đối phương như vậy thì sẽ không có
lợi chút nào, trái lại sẽ chỉ có hại. Lập luận này hình như đã hoàn toàn
thuyết phục được Xi-ay-ét, và từ đó Xi-ay-ét câm lặng.
"Bản hiến pháp của năm Cộng hoà thứ 8" (người ta gọi bản hiến pháp được
khởi thảo dưới sự bảo hộ của Na-pô-lê-ông như vậy) đã đáp ứng được một
cách tuyệt diệu cái nguyên tắc do Na-pô-lê-ông đặt ra. Quyền hành đều tập
trung hết vào tay Tổng tài thứ nhất còn hai vị Tổng tài khác chỉ có quyền tư
vấn. Bô-na-pác được chỉ định là Tổng tài thứ nhất trong 10 năm. Tổng tài
thứ nhất chỉ định một thượng nghị viện gồm 80 nghị sĩ. Bằng quyền hành
duy nhất của mình, Tổng tài thứ nhất còn bổ nhiệm các chức vụ hành chính
và quân sự, bắt đầu từ chức bộ trưởng, và tất cả những người thụ nhiệm chỉ
chịu trách nhiệm trước Tổng tài thứ nhất. Cũng còn thành lập hai viện để
tiêu biểu cho quyền lập pháp:
- Viện Pháp chế.
- Viện Lập pháp.