Các ủy viên của cả hai viện này đều do Thượng nghị viện chỉ định
(nói một cách khác, vẫn do Tổng tài thứ nhất chỉ định) theo một danh sách
vài nghìn ứng cử viên do các công dân "bầu ra" bằng một phương pháp bỏ
phiếu hết sức phức tạp.
Giả dụ ngay như trong số vài nghìn ứng cử viên do nhân dân bầu ra thì chỉ
được chọn 400 vị về phe với chính phủ, và cũng rất rõ ràng là người ta sẽ
chọn trong 400 vị ấy lấy một số để bổ sung vào những chỗ khuyết trong
Viện Pháp chế và Viện Lập pháp. Không thể đặt ra vấn đề tính độc lập cho
các vị đã được tuyển lựa theo kiểu đó được. Nhưng cũng chưa hết, ngoài
những tổ chức đó ra, còn thành lập Hội đồng Chính phủ do chính phủ của
Tổng tài thứ nhất toàn quyền chỉ định.
Bộ máy lập pháp hoạt động theo phương thức sau đây: Chính phủ đệ trình
một bản dự án pháp luật lên Hội đồng Chính phủ, Hội đồng Chính phủ bổ
sung xây dựng và trình lên Viện Pháp chế. Viện Pháp chế có quyền phát
biểu ý kiến của mình bằng lời về bản dự thảo đó, nhưng không có quyền
quyết định. Sau khi đã làm xong nhiệm vụ của mình bằng cách ấy, Viện
Pháp chế gửi bản dự thảo sang Viện Lập pháp. Viện này không có quyền
thảo luận về bản dự thảo, nhưng để bù lại, người ta giao cho nhiệm vụ đặt
thành quy chế, sau đó bản dự thảo được Tổng tài thứ nhất phê chuẩn và trở
thành luật.
Đương nhiên, trong suốt triều đại Na-pô-lê-ông, cái bộ máy "lập pháp"
không hợp lý một cách cố tình ấy đã chỉ là kẻ câm điếc thừa hành ý muốn
của Na-pô-lê-ông. Vả lại, sau này (năm 1807) Na-pô-lê-ông đã bãi bỏ Viện
Pháp chế vì ông ta cho rằng nó hoàn toàn vô ích. Đương nhiên là những
điều mà hai viện bàn bạc rồi quyết định phải được giữ hết sức bí mật (và đã
được làm như vậy). Khi cần xúc tiến công việc khẩn trương hơn, Tổng tài
thứ nhất có thể đưa thẳng ra những đề án của mình lên Thượng nghị viện
đề nghị viện thông qua dưới hình thức một "Nghị quyết của Thượng nghị
viện", thế là xong. Như vậy, tất cả quyền lực thực tế về lập pháp, cũng như
toàn bộ quyền hành chính đều tập trung cả vào tay Bô-na-pác.