này không bao giờ được trở về tổ quốc nữa, hoặc có thì chỉ khi nào đã bị
tàn phế sau nhiều năm cấm cố tù đày. Một số chết ở trong nhà giam (lúc
bấy giờ nạn "tự tử" của các tù nhân chính trị rất phổ biến), một số khác chết
ở Cay-en, một thuộc địa của nước Pháp chuyên dùng để đày ải. Sau vụ "âm
mưu" ấy một tháng, (ngày 18 tháng 11 năm 1800), cảnh binh của Phu-sê
bắt được một người Gia-cô-banh chính cống là Sơ-va-li-ê đang chế tạo một
quả bom. Một làn sóng bắt bớ và tù đày mới lại tràn ngập khắp nước.
Người ta bắt bớ lung tung, bắt cả những người "đáng ngại" tuy họ chẳng
biết tí gì về cái ông Sơ-va-li-ê ấy cũng như âm mưu của ông ta. Hơn nữa,
vào tháng 12 năm ấy, lại xảy ra vụ âm mưu ghê gớm nhằm hạ sát vị Tổng
tài thứ nhất; thực tế, những người Gia-cô-banh chẳng hề dính líu gì vào mụ
này, nhưng Na-pô-lê-ông đã vin vào cớ đó để dùng những biện pháp mới
khốc liệt hơn chống những người Gia-cô-banh.
Ai muốn tìm hiểu sâu bản chất của Na-pô-lê-ông và muốn tìm hiểu
những động cơ thực của ông ta thì không nên để mình bị cám dỗ bởi những
manh ý khéo léo đầy dẫy trong vô số cuốn sách viết về ông ta; những cuốn
sách ấy đều miêu tả Na-pô-lê-ông cụ thể như một người "nửa cách mạng";
trước hết là bọn thù địch của Na-pô-lê-ông thường gọi như vậy, rồi vào nửa
đầu thế kỷ thứ XIX thì bọn xu nịnh gọi ông ta là "một Rô-be-xpi-e cưỡi
ngựa". Nhưng không bao giờ ông ta là thế cả. Bản chất chuyên chế, bẩm
sinh độc tài, nhưng biết tính đến hoàn cảnh, nên trong những ngày đầu, Na-
pô-lê-ông thấy cần thiết phải để cho một vài dấu vết thuần tuý hình thức ấy
của nền cộng hòa tư sản được tồn tại. Nhưng ngay sau khi đã có thể làm
được thì Na-pô-lê-ông quét sạch tất cả những gì của nền cộng hòa để lại và
kiên quyết dốc hết tâm trí vào việc biến nước Pháp thành một quốc gia
quân phiệt và chuyên chính, biến châu Âu thành một cụm vương quốc chư
hầu, thuộc địa và nửa thuộc địa hoàn toàn lệ thuộc và cái chế độ quân phiệt
hà khắc ấy. Dưới nền quân chủ Na-pô-lê-ông không có chỗ đứng cho người
Gia-cô-banh và tư tưởng Gia-cô-banh với những ước vọng như: thành lập
"những nước cộng hòa anh em", thực hiện bình đẳng và tự do. Na-pô-lê-
ông ghét cay ghét độc những điều ấy. Ăng-ghen đã chú ý đặc biệt đúng