lượng: vả lại, Viên làm Na-pô-lê-ông vui lòng vì sự quy phục của nó. Cuộc
duyệt binh ngày 12 tháng 10 sắp kết thúc thì một thanh niên, quần áo chỉnh
tề, đã lẩn được vào giữa đám kỵ mã tuỳ tùng của hoàng đế, và tay trái cầm
lá đơn thỉnh cầu, tiến sát tới gần hoàng đế. Người ta bắt giữ ngay lại trước
khi người thanh niên chưa kịp rút trong túi ra một con dao dài nhọn.
Duyệt binh xong, Na-pô-lê-ông ngỏ ý muốn gặp người bị bắt. Đó là
một anh Stáp nào đó, sinh viên trường đại học Nau-mơ-bua.
- Tại sao anh muốn giết ta?
- Tôi nghĩ rằng chừng nào Bệ hạ còn sống thì tổ quốc tôi và cả thế giới
sẽ không còn biết thế nào là tự do và hòa bình.
- Ai đã xúi giục anh?
- Không ai cả.
- Trong các trường đại học ở nước anh, người ta dạy các anh như thế
phải không?
- Thưa ngài, không.
- Anh muốn làm Bru-tút à?
Rõ ràng là người thành niên không đáp, vì sau này Na-pô-lê-ông nói
rằng hình như anh ta không rõ lắm Bru-tút là ai.
- Nếu ngay bây giờ ta trả lại tự do cho anh thì anh sẽ làm gì? Anh có
định giết ta nữa không?
Sau một lúc lâu im lặng, Stáp đáp:
- Tôi sẽ giết, thưa ngài.
Na-pô-lê-ông im lặng rồi bỏ ra, suy nghĩ rất lung. Ngay tối hôm đó,
hội đồng quân sự họp và ngày hôm sau Stáp bị bắn.
Na-pô-lê-ông cấm nói đến và cấm tường thuật việc ấy trên báo chí và,
hai ngày sau việc ấy, ngày 14 tháng 10 năm 1809, hoàng đế áo Phran-xoa
đệ nhất, cuối cùng quyết định ký hòa ước Sơn-brun, cái hòa ước cắt xén
một cách tàn nhẫn đất đai của áo và tăng cường một cách vô hạn độ uy lực
của kẻ độc tài của châu Âu.
Nước áo đã phải trả cái mưu đồ tuyệt vọng và khốn khổ của mình, là
quẳng cái ách của Na-pô-lê-ông, bằng hàng chục vạn sinh mệnh, bằng sự
tàn phá của đất nước, bằng một khoản chiến phí nặng nề, bằng gần một