chúng là bọn "đốt máy") và thỉnh thoảng còn tiến công cả vào các thành
phố. Những đám giặc cướp đó núp dưới danh nghĩa những người Buốc-
bông: tự xưng là đi rửa thù cho nhà vua và Thượng đế đã bị lật đổ. Quả
thật, những tên bị cách mạng làm tổn hại trực tiếp đến bản thân đã kéo đến
nhập bọn với chúng, người ta đồn rằng: có một vài tên tướng cướp đã nộp
một phần số của cải cướp được cho bọn bảo hoàng, điều đó rất có thể có,
nhưng chưa được xác nhận. Dẫu sao đi nữa, tình trạng rã rời và hỗn loạn
của bộ máy cảnh sát vào cuối thời Viện Đốc chính đã đưa đến chỗ không
thể bắt được bọn cướp và tồi lỗi của chúng không bị trừng pháp. Vị Tổng
tài thứ nhất quyết định trước hết phải tiêu diệt bọn này. Đối với Na-pô-lê-
ông, cần chừng sáu tháng để diệt trừ nạn trộm cướp, song những toán cướp
chính đã bị dẹ p tan ngay từ những tháng đầu khi Na-pô-lê-ông lên nắm
chính quyền.
Na-pô-lê-ông quy định những điều luật nghiêm ngặt: không bắt cầm
tù, mà bắn ngay tại cỗ những tên cướp bị bắt, trừng trị cả những ai che giấu
bọn chúng, mua bán những đồ vật ăn cướp, hoặc nói chung có quan hệ với
bọn chúng; đó là những nét lớn về chính sách của Na-pô-lê-ông. Những
phân đội đặc biệt đã trấn áp không tiếc tay, không phải chỉ những tên phạm
tội trực tiếp và những tên đồng phạm, mà còn trấn áp cả những nhân viên
cảnh sát nhu nhược, thông đồng hoặc tiêu cực với bọn chúng.
Trong trường hợp này, một điểm khác của Na-pô-lê-ông đã biểu lộ:
Na-pô-lê-ông không dung thứ tội lỗi. Đối với Na-pô-lê-ông, mọi tội lỗi đều
đáng trừng trị. Na-pô-lê-ông không thừa nhận và cũng không muốn thừa
nhận có những trường hợp giảm tội. Có thể nói được rằng: trên nguyên tắc,
Na-pô-lê-ông phủ nhận lòng nhân hậu, coi đó là một đức tính rất có hại và
không thẻ thừa nhận được ở một nhà cầm quyền. Khi em trai thứ hai của
Na-pô-lê-ông là Lu-i, được phong làm vua Hà Lan năm 1806, có khoe với
anh rằng y rất được quý mến ở Hà Lan, thì lập tức ông anh nghiêm nghị
ngắt lời ông em trai bằng câu: "Em ơi! khi người ta bảo vua là một người
tốt thì có nghĩa là triều đại ấy đã đi đứt rồi đấy".
Tháng 4 năm 1811, tờ Nhật báo nước Pháp, vì quá sốt sắng, đã ca tụng
bằng một giọng cảm kích nhất và nhiệt thành nhất "lòng nhân hậu" của