chịu nổi. Cái trại có hoang phế đi thì cũng cần gì, bởi vì hết đời bà còn có
một đứa con nào của bà sẽ nhận lấy nữa đâu.
Các con bà thường viết thư khẩn khoản mời bà đến với họ, nhưng bà
không chịu. Bà không muốn trông thấy cái nước đã cướp các con của bà.
Bà chỉ nghĩ đến đám con, và nghĩ rằng họ phải ra đi để kiếm miếng ăn.
Mùa hè đến, bà dắt bò cái ra bãi cỏ trong đầm lầy lớn. Chính bà ngồi suốt
ngày bên bờ đầm, hai tay khoanh trên đầu gối, và chiều về bà nhắc lại
những ý nghĩ của bà như sau:
- Thấy không, Lông Hung, giá ỏ đây mà có những cánh đồng màu mỡ
chỗ cái bãi lầy rộng lớn mà người ta không thể trồng trọt được ấy, thì chúng
đã không cần gì mà phải ra đi.
Bà tức giận cái đầm lầy vì nó lan ra xa đến thế, và không dùng được vào
một việc gì hết cả. Bà lẩm bẩm rủa nó, buộc tội nó đã là nguyên nhân làm
cho các con bà bỏ nhà ra đi.
Buổi tối cuối cùng này, bà hình như yếu đuối và lẩy bẩy hơn bao giờ hết.
Bà không thể vắt xong sữa cho con Lông Hung nữa. Bà đã đứng tựa vào cái
máng ăn một hồi, và đã nói chuyện với hai người nông dân đến gặp bà để
hỏi mua cái đầm lầy. Họ tính tiêu nước cho nó, gieo hạt vào đó, và gặt hái
được mùa màng ở đó. "Mày nghe chưa, Lông Hung, mày nghe chưa, họ nói
là lõa mạch có thể mọc lên trên đầm lầy. Ta sẽ viết thư ngay lập tức cho con
cháu ta để chúng nó trở về. Chúng chẳng cần ở lại nước ngoài làm gì nữa.
Chúng sẽ kiếm được miếng ăn ở đây, tại nhà này".
Để viết thư bà đã đi vào nhà...
Chú bé không nghe thêm bò cái kể nữa. Chú đã mở cửa chuồng bò, và đã
lên lại nhà trên, đến với người chết. Chú đứng một hồi trên ngưỡng cửa,
nhìn tất cả mọi vật một lượt. Cái nhà không nghèo như người ta tưởng. Có
rất nhiều đồ đạc mà người ta thường thấy ở nhà những người có bà con ở