một mê cung những con phố chật hẹp nằm lộ thiên, nơi tập trung quầy quán
và gian hàng trong đó các nghệ nhân trang bị đồ dùng dụng cụ và que hàn
vẫn quai búa, đúc và gia công kim loại để biến chúng thành đèn bàn, đèn
lồng, bình phong và các đồ đạc khác bằng sắt rèn.
Giữa các chùm tia lửa, có thể thấy rõ ràng ba người: Nathan Fawles, cô
Mathilde đã nhắc trên kia, cùng một đứa trẻ khoảng một tuổi, ngồi trong xe
đẩy.
Trên ảnh, Mathilde mặc váy ngắn vải Jacquard, áo khoác da dáng ngắn
và đi đôi xăng đan cao gót. Tay cô đặt trên vai Fawles. Một vẻ gì đó nhạy
cảm, hết sức dịu dàng, cương nghị và rạng rỡ tựa mặt trời lan tỏa từ gương
mặt cô. Fawles đứng ở tiền cảnh, mặc quần jean, áo sơ mi vải lanh màu
xanh da trời nhạt và áo khoác phi công dáng ngắn. Làn da rám nắng, đôi
mắt sáng, ông vẫn phong độ ngời ngời. Cặp kính râm của ông hất ngược
lên trán. Người ta hiểu rằng ông đã phát hiện ra tay thợ ảnh, ông ném cho
gã ánh mắt gần như muốn nói: mau cút xéo đi, cậu sẽ không bao giờ động
được đến chúng tôi. Hai tay ông để trên tay cầm chiếc xe đẩy. Tôi nhìn
khuôn mặt đứa trẻ và đâm bối rối, bởi nó khiến tôi nghĩ đến chính mình khi
còn nhỏ. Mái tóc vàng, cặp kính tròn và màu sắc, mấy chiếc răng thưa. Dẫu
xâm phạm đời sống riêng tư, bức ảnh rõ ràng vẫn nắm bắt được điều gì đó:
một sự đồng lõa, một khoảnh khắc thư thái, sự cân bằng hoàn hảo của một
cuộc đời.
*
Tại Nam Thập Tự, đêm đã buông. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy vô cùng cô
độc và có chút buồn bã giữa bóng tối. Tôi đứng dậy để bật đèn và để có thể
tiếp tục viết.
Khi quay trở lại bàn làm việc, tôi xem bức ảnh lần nữa. Tôi chưa bao giờ
gặp Nathan Fawles, nhưng tôi có cảm giác quen biết ông bởi tôi từng đọc
và yêu thích những cuốn sách ông viết và tôi lại đang sống tại nhà ông.
Toàn bộ ánh sáng trong bức ảnh được hấp thụ bởi gương mặt và ánh cười
rạng rỡ của cậu nhóc. Và tôi bỗng tin chắc rằng không phải những cuốn
sách cũng chẳng phải việc viết văn đã cứu vớt Fawles. Nhà văn bám víu