bổng khỏi nhà tù, trong khi nhớ lại thông tin đó đã giết chết sự nhiệt tình
của Max Rupert như thế nào.
Tôi không muốn ngài giáo sư bác bỏ những lập luận của tôi chỉ đơn giản
vì Carl đã không còn phải ngồi tù nữa. Tôi bắt đầu bài thuyết trình của
mình với những bức ảnh chụp cửa sổ của nhà Lockwood. “Thật là thú vị,”
ông ấy thốt lên.
“Còn có thứ hay hơn,” tôi nói, lấy cuốn nhật ký ra khỏi tập tài liệu, đặt
chúng ngay trước mặt ông ấy, dẫn dắt ông ấy qua những diễn biến trong các
bài viết của cuốn nhật ký, giải thích làm thế nào mà công tố viên lại sử
dụng chúng để vẽ ra một bức tranh giả và kết án Carl Iverson. Sau đó tôi
chỉ cho ông ấy các tài liệu giải mã, với cái tên của kẻ giết người được nêu
ra. Ông ấy nghiêng đầu sang một bên và mỉm cười khi đọc về DJ. “DJ:
Douglas Joseph. Cái đó có vẻ logic đấy,” ông ấy nói. “Làm cách nào mà
cậu lại tìm ra được mật mã?” “Đó là nhờ vào người em trai mắc chứng tự
kỷ của cháu.” Tôi nói.
“Một thiên tài ư?” Giáo sư Sanden hỏi.
“Không ạ,” tôi nói. “Chỉ là may mắn thôi. Crystal Hagen đã tham gia vào
lớp học đánh máy vào mùa thu năm đó và cô ấy dùng những ký tự của
mình dựa vào một câu… ngài biết đấy, một câu mà trong đó có tất cả các
chữ của bảng chữ cái.”
Ngài giáo sư Sanden lục lại trong bộ nhớ của mình. “Một câu gì đó về
một “lazy dog” phải không?” “Đúng là câu đó,” tôi nói. “Đó là mật mã,
điều bí ẩn của cô ấy. Khi chúng cháu tìm ra được chìa khóa cho những mật
mã đó, câu trả lời xuất hiện, trắng đen rõ ràng. Cái cách mà tụi cháu suy
luận là, Doug đã bắt Danny phải thuận theo những lời nói dối về việc họ
đang ở cùng nhau tại xưởng sửa xe. Danny ghét mẹ kế của mình, vì chúng
cháu biết được rằng cuộc hôn nhân này không mấy êm đẹp. Có lẽ Doug đã
nói với Danny rằng ông ấy đang bao che cho một việc gì khác.”